Cách tụng Chú Lăng Nghiêm tại nhà đúng Pháp

Tụng Chú Lăng Nghiêm không giống như tụng các chú khác trong Phật pháp. Thà là không tụng, chớ một khi đã quyết định đọc tụng thì tối thiểu phải đáp ứng được 3 điều kiện:

  1. Giữ ngũ giới tinh nghiêm và kiêng Ngũ vị tân.
  2. Phải có tâm từ bi.
  3. Giữ thân khẩu ý thanh tịnh.

Phải từ bi hương xót muôn loài, kể cả đối với Thiên ma hay đại ác quỷ cũng chỉ một tâm từ bi thương xót; một niệm tức giận, oán ghét, trách móc, tham lam…ở trong tâm cũng tuyệt đối không được khởi lên. Nếu đáp ứng được ba điều kiện tối thiểu ở trên hẵng tụng, còn thiếu một cũng không nên tụng! Tại sao thế? Bởi Chú Lăng Nghiêm là vua của các chú, uy lực kinh thiên động địa và sức trấn áp thiên ma, ngoại đạo, quỷ thần vô cùng khủng khiếp.

Lại “người tụng chú luôn có tám vạn bốn ngàn thiện thần hộ pháp, Kim Cang Tạng Bồ Tát thường theo bảo hộ”. Chư hộ Pháp nếu thấy người tụng chú thân tâm không thanh tịnh, họ sẽ không vui, nếu thấy người tụng khởi niệm xấu ác, họ sẽ trách phạt. Vì sao bị trách phạt? Vì chú Lăng Nghiêm là bảo vật vô giá của tam thế Chư Phật, thân tâm phải từ bi thanh tịnh mới tương ưng được với diệu pháp vậy!

Nhiều người tụng chú Lăng Nghiêm không biết lý này, nên tự mình khiến chướng ngại phát sanh. Chướng ngại sanh ra thường khiến người ta kham nhẫn không nổi. Lúc ấy dễ quay lại bài bác, bảo chú không linh, phạm đại vọng ngữ mà đọa vào địa ngục!

*

Tuệ Tâm có anh bạn đồng đạo, tuổi trẻ nghèo khó, long đong lận đận, làm việc chi cũng chẳng thành. Về sau duyên may gặp Phật pháp, anh quyết tâm giữ giới, ngày ăn một bữa, tụng Chú Lăng Nghiêm. Tụng một thời gian thì cả nhà anh, từ cha mẹ, anh em đến con cháu đều được chuyển hóa nghiệp lực.

Những người trước đây ngăn cản không cho anh tụng chú cũng tự nhiên phát tâm ăn chay niệm Phật. Kinh tế dần dần khá giả, cuộc sống không cầu mà càng ngày càng sung túc giầu có. Anh hành trì như thế ròng rã chín năm, trí huệ và một số khả năng thần thông khác được khai mở. Cuộc sống của gia đình anh an nhiên tự tại, mặc thế cuộc xoay vần.

Hơn 20 năm nay, rất ít người hay biết, anh và gia đình luôn âm thầm hộ trì Tam Bảo. Không biết bao nhiêu đạo tràng, Chùa chiền đã được gia đình anh thầm bảo trợ trùng tu…Dù chưa bao giờ nghe anh nói đến tiền bạc, nhưng tôi nghĩ số tiền thanh tịnh mà anh cúng dường hộ trì Phật pháp, chưa chắc có Đại gia nào ở đất nước này làm được. Ở tuổi sáu mươi mấy mà người ngoài nhìn cứ tưởng anh mới khoảng 50. Sự diệu dụng của chú Lăng Nghiêm quả thật chẳng thể nghĩ bàn!

  • Cảnh tỉnh về tu tập 42 Ấn thủ nhãn Ấn pháp.
  • Kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni.
  • Chú Đại Bi nhiệm mầu.
  • Linh ứng chú Đại Bi.
  • Kinh Thủ Lăng Nghiêm.
  • Cách tụng kinh tại nhà
  • Cuộc đời& đạo nghiệp của Hòa Thượng Tuyên Hóa.
Thần chú Lăng Nghiêm
Cách tụng Chú Lăng Nghiêm

Hòa Thượng Tuyên Hóa Khai Thị về Tụng Chú Lăng Nghiêm

Cứu kính kiên cố định trung vương

Trực tâm tu học chí đạo tràng

Thân, miệng, ý nghiệp tu thanh tịnh

Tham, sân, si niệm yếu tảo quang

Thành tắc cảm ứng hoạch hiện chứng

Chuyên năng thành tựu đại thần thông

Hữu đức ngộ tư vinh diệu cú

Thời khắc mạc vong thiệu long xương”

Lăng Nghiêm là tiếng Phạn dịch là “tất cả sự cứu kính kiên cố”, cũng có nghĩa là “định”, định này là vua trong tất cả các định.

“Cứu kính kiên cố định trung vương”. Lăng Nghiêm là vua trong tất cả các định. “Trực tâm tu học chí Ðạo tràng”. Tu đạo phải dùng tâm ngay thẳng, đừng dùng tâm cong vạy. Tâm ngay thẳng mới đạt được mục đích. Nếu bạn dùng tâm cong vạy ngoằn ngoèo tu Phật Pháp, thì tu chẳng thành tựu. “Thân, miệng, ý nghiệp tu thanh tịnh”, “Tham, sân, si niệm yếu tảo quang”. Tu pháp này thì miệng không nói dối, không nói lời thêu dệt, không nói lưỡi hai chiều, không chưởi mắng. Thân thì không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm. Ý niệm thì không tham, sân, si. Khi thân, miệng, ý ba nghiệp thanh tịnh tức là tổng trì.

“Thành tắc cảm ứng hoạch hiện chứng”. Phải thành tâm thì mới có cảm ứng. Hiện tại thì chứng được năng lực không thể nghĩ bàn của Chú này. Lực lượng của Chú không thể nghĩ bàn.

*

“Chuyên năng thành tựu đại thần thông”. Nếu bạn chuyên tâm, tâm không phóng túng, không có tạp niệm, thì sẽ thành tựu đại thần thông. Chú Lăng Nghiêm có năm hội (năm đệ), có trên ba mươi đoạn pháp. Trong Chú lại có: Pháp hàng phục, pháp câu triệu, pháp tiêu tai, pháp tăng ích, pháp thành tựu, pháp cát tường .v.v., rất nhiều loại pháp.

“Hữu đức ngộ tư linh diệu cú”. Có đức hạnh mới gặp được pháp này. Người không có đức hạnh, thì có gặp được cũng không hiểu. Những câu Chú thâm diệu này, thâm sâu không thể nghĩ bàn.

“Thời khắc mạc vong thiệu long xương”. Thời thời phút phút đừng quên pháp này, hay thành tâm chuyên nhất, thì rạng rỡ hưng thạnh Phật Pháp. Ðó là lược nói đại khái về Chú Lăng Nghiêm. Nếu nói tỉ mỉ thì nói không hết được. Bạn muốn minh bạch, thì phải tự mình nghiên cứu kỹ càng. Ðây là diệu pháp trăm ngàn vạn kiếp khó gặp được, đừng để lỡ mất cơ hội.

Phương Tiện Trì Tụng Chú Lăng Nghiêm

Trì tức là thọ trì, thọ nơi tâm, trì nơi thân. “Trì” cũng giống như dùng tay cầm vật gì. Trì niệm thần Chú thì đừng quên nó, đừng thiếu nó, phải niệm từ từ, thời thời phút phút tụng trì Chú này.

1. Cách Lập Chú Đàn cho bậc Thượng Căn.

Trì Chú nên có một đàn tràng, gọi là Chú đàn, cũng giống như truyền giới, cần có giới đàn. Chú đàn phải thanh tịnh, không cho người vào hỗn tạp, chỉ có người trì Chú, tu pháp ở trong đó. Nghi kiến lập đàn là phương tiện trước khi trì Chú, kiến lập đàn vốn có quy củ nhất định, trong Kinh Lăng Nghiêm có nói đến, đây là vì người tụng Kinh hành đạo, cầu hiện chứng mà thiết lập. Hiện chứng là đời này đắc được lợi ích của Chú.

Nếu “truy tố” phát tâm tán trì. “Truy” là người xuất gia ; “tố” là người tại gia, tán trì tức là không có đàn tràng, như vậy phải chuyên nhất tâm ý kiền thành cung kính. Trong Kinh Lăng Nghiêm có nói: “Nếu có chúng sinh, tâm khởi tán loạn, thì chẳng phải là Tam Ma Ðịa (định lực). Tâm nhớ miệng trì là Kim Cang Vương, thường tùy tùng theo các người thiện nam, hà huống người quyết định phát đại tâm bồ đề”.

*

“Tán tâm trì Chú không ở trong định, thì có tám vạn bốn ngàn Kim Cang Vương hộ pháp thường theo bạn, hà huống quyết định phát đại tâm bồ đề !”. Trong Kinh lại nói: “Nếu không làm đàn, không nhập đạo tràng, cũng không hành đạo, tụng trì Chú này, vẫn đồng công đức nhập đạo tràng không khác. Cho đến đọc tụng biên chép Chú này, có ở trong người, thì ở đâu cũng yên nhà cửa vườn tược, tích nghiệp như thế không lâu sẽ ngộ vô sinh nhẫn”.

Chỉ nói đơn giản chỗ chính yếu. Trì Chú phải “ba mật” tương ưng mới đắc được cảm ứng. Ba mật tức là: Miệng tụng thần Chú, tâm tưởng chữ Phạn, tay kết ấn tướng, cũng gọi là ba đàn. Tại sao gọi là thần Chú ? Vì diệu không thể tả. Tâm tưởng chữ Phạn, là quán tưởng mặt sau tâm Chú của mỗi chữ Phạn. Ba mật tương ưng tức là phương tiện trước khi trì Chú.

Thứ nhất là “Chú ngữ đàn”.

Trì Chú thì tự nhiên kết thành đàn, đây là nói mỗi ngày, hoặc mỗi lần trước tiên niệm Chú Lăng Nghiêm một biến, sau đó trì tâm Chú một trăm lẻ tám biến. Tâm Chú tức là: “Ðát điệt tha. Án a na lệ tì xá đề, bệ ra bạt xa ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàng ni, phấn hổ hồng đô lô ung, phấn ta bà ha”. Tâm Chú này diệu không thể tả. Nếu trên thế gian không còn ai niệm Chú Lăng Nghiêm, thì tất cả yêu ma quỷ quái đều xuất hiện ra đời.

Tâm Chú này có hai câu: “A na lệ, tì xá đề”. Một câu nghĩa là “dọc cùng tam tế”, một câu nghĩa là “ngang khắp mười phương”. Một khi niệm hai câu Chú này, thì thiên ma ngoại đạo không có chỗ đào thoát. Chúng sẽ lão lão thực thực nghe vẫy kêu. Chỉ sức lực của hai câu Chú này, thật không thể nghĩ bàn.

Nếu sáng sớm bạn tụng niệm Chú Lăng Nghiêm một lần, sau đó tụng tâm Chú 108 lần, thì sẽ được phước báu vô lượng vô biên. Cho nên nói, nếu bạn trì tụng Chú Lăng Nghiêm, thì đời sau sẽ đắc được giàu sang phú quý bảy đời. Ðây là nói bạn muốn cầu phước báu trời người, nếu không muốn cầu, thì đương nhiên không cần. Nếu bạn muốn cầu quả báo xuất thế, thì sẽ đạt được mục đích. Ðây là “Chú ngữ đàn”.

Thứ hai là: “Tâm tưởng đàn”.

Nghĩa là khi tụng tâm Chú, thì quán tưởng từng chữ Phạn. Nói đến chữ Phạn, có lúc sự tình không nhất định minh bạch, nếu minh bạch thì nhuệ khí, cảm thấy đã đủ rồi. Nếu không minh bạch, thì cảm thấy có chút ý nghĩa trong đó. Không minh bạch thì ví như ăn thức ăn, chưa ăn thì cảm thấy ngon, ăn rồi thì nếm qua: chua ngọt đắng cay, tâm tham ăn đã dừng lại, cảm thấy chẳng còn ngon nữa. Tu hành cũng như thế.

Nếu bạn không biết ý nghĩa của Chú, ý nghĩa chữ Phạn thì cảm thấy diệu không thể tả. Tâm niệm luôn luôn nghĩ muốn biết, nếu bạn biết rồi thì không chú ý. Quán tưởng chữ Phạn cũng lại như thế, vì chữ Phạn chúng ta chưa học qua, nên không biết ý nghĩa của nó, không giống như chữ Tàu. Ðây là chữ “đại” kia là hai chữ “Bồ Tát”. Quán tưởng chữ Phạn sẽ đắc được ngũ nhãn lục thông, phải quán tưởng từng chữ rõ ràng, mở mắt nhắm mắt đều thấy rõ ràng, lâu dần thì chỗ diệu dụng sẽ phát sinh, có thể khiến cho bạn khai mở ngũ nhãn lục thông, thông nhân đạt quả, là vì chúng ta không minh bạch chữ Phạn, thì có một sức lực thần diệu.

Quán tưởng chữ Phạn cũng là phương pháp khóa tâm lại, chế tâm tại một chỗ đừng cho khởi vọng tưởng, ấn nhập từng chữ Phạn vào trong tâm, bất cứ mở hoặc nhắm mắt đều rõ ràng. Như thế lâu dần sẽ đắc được tam muội.

Thứ ba là: “Thủ ấn đàn”.

Thủ ấn cũng gọi là thủ quyết. Một số cho rằng Kháp quyết niệm Chú tức là Sáp quyết. Ðã minh bạch Chú ngữ đàn và quán tưởng đàn rồi, thì Thủ ấn đàn cũng phải minh bạch. Trong quyển Nhứt Tự Phật Ðảnh Luân Vương Niệm Tụng Nghi Quy cũng nói rõ: “Bạch tản cái Phật đỉnh ấn”, dùng hai ngón cái, mỗi ngón bắt lấy đầu ngón thứ tư, chạm nhau, hai đầu ngón cong như hình cái lọng, hai ngón giữa cong một chút chạm nhau, hai ngón út dựng thẳng chạm nhau tức thành đại bạch tản cái Phật đỉnh luân vương. (Xem hình ở dưới).

Kháp quyết niệm Chú, tức là bạn phải tập trung tinh thần, bạn làm động tác này, thì không nên khởi vọng tưởng gì khác. Chẳng phải ý nghĩa gì khác, chẳng phải nói một khi Kháp quyết thì linh. Nếu bạn không có vọng tưởng gì khác, không Kháp quyết cũng là ba mật tương ưng. Nên biết chân lý, tại sao phải có ba mật tương ưng ? Vì Chú ngữ đàn, quán tưởng đàn, thủ ấn đàn, đều muốn bạn đừng khởi bất cứ vọng tưởng gì. Cho nên chuyên nhất thì linh, phân chia thì tán loạn.

*

Lại có Thủ ấn Kim Cang quyền, Kim Cang chưởng, Kim Cang phược. Không giống “Bạch tản cái Phật đỉnh ấn” rất phức tạp. Hai bàn tay nắm lại, gọi là Kim Cang chưởng, nhưng đừng trợn mắt, bằng không thì thành Kim Cang trợn mắt. Mười ngón tay bắt chéo với nhau ngửa lên, gọi là thủ ấn Kim Cang chưởng, úp xuống gọi là thủ ấn Kim Cang phược.

Hết thảy pháp Tam muội đều do Kim Cang quyền, Kim Cang chưởng, Kim Cang phược sinh ra. Khi bạn niệm Chú thì ba đàn tương ưng. Ba thủ ấn này muốn kết ấn nào cũng được, đều thành “Lăng Nghiêm vương đại bạch tản cái Phật đỉnh tâm Chú ấn”. Sau đó quán tưởng tụng niệm Chú này, thì ba mật sẽ tương ưng.

Ðược như thế thì sẽ đắc được thân, miệng, ý tam luân không thể nghĩ bàn của mười phương chư Phật. Bất cứ sở cầu thế gian, xuất thế gian, không có gì mà chẳng được như ý, nhưng tốt nhất vẫn là vô sở cầu. Vì có sở cầu thì có tâm tham, có tâm tham thì chẳng đắc được cảm ứng hiện thời, không thể được vô lượng công đức. Nếu vô sở cầu thì công đức mới lớn.

2. Lập Chú Đàn cho bậc Hạ Căn

Nếu bạn không thể bắt ấn, thì trong bộ mật có ba bài Chú, tùy ý niệm cũng thành đàn. Thứ nhất là Pháp Giới Chân Ngôn: “Án phạ nhật la đà đổ một”. Niệm rồi thì pháp giới đều thanh tịnh. Thứ hai là Thanh Tịnh Chân Ngôn: “Án lam sa ha”. Thứ ba là khi Phóng Diệm Khẩu thì niệm Ba Ðàn Chân Ngôn: “Án hạ hồng”. Ba đàn tức là Phật, Pháp, Tăng.

Chữ “Án” là trên đỉnh Tỳ Lô làm Phật đàn.

Chữ “Hạ” là trong miệng Di Ðà làm Pháp đàn.

Chữ “Hồng” là trong tâm A Súc làm Tăng đàn.

Ba câu Chú này mỗi câu niệm bảy biến, thì ba mật cũng tương ưng. Trước khi niệm Chú, niệm ba bài Chú này cũng rất tốt.

Như vậy, có thể hiểu rằng: Đây là cách mà Hòa Thượng từ bi chỉ dạy cách lập chú đàn cho hàng tại gia, muốn tụng chú Lăng Nghiêm nhưng không thể kiết ấn và lập Chú Đàn.

Lược giảng về lợi ích khi Trì Tụng Chú Lăng Nghiêm

Chú Lăng Nghiêm là vua trong các Chú, cũng dài nhất trong các Chú. Chú này quan hệ đến sự hưng suy của Phật Giáo. Nếu trên thế giới không có người nào tụng Chú Lăng Nghiêm thì thế giới sớm sẽ hủy diệt. Vì trên đời không còn chánh pháp. Chỉ có Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm là quan trọng nhất trong chánh pháp. Kinh Lăng Nghiêm mà nói, là vì Chú Lăng Nghiêm, là giải thích Chú Lăng Nghiêm, tán thán Chú Lăng Nghiêm. Trong Kinh Lăng Nghiêm có đoạn Kinh nói về kết pháp đàn rất tỉ mỉ. Muốn biết tỉ mỉ thì xem Kinh Lăng Nghiêm.

Chú Lăng Nghiêm gọi là Phật đảnh quang minh, là trên đảnh hóa thân của Phật nói. Cho nên là vi diệu không thể nghĩ bàn. Mỗi câu có đường lối dùng của mỗi câu, mỗi chữ đều có ảo diệu của mỗi chữ, đều không thể nghĩ bàn. Năng lực của Chú phá trừ hết thảy hắc ám, thành tựu hết thảy công đức. Nếu bạn thọ trì Chú Lăng Nghiêm thì tương lai nhất định sẽ thành Phật, nhất định sẽ được vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nếu thường tụng niệm Chú Lăng Nghiêm, thì có thể tiêu trừ nghiệp chướng đời quá khứ. Ðây là diệu dụng của Chú Lăng Nghiêm.

*

Tụng trì Chú Lăng Nghiêm, thì trên thân có quang minh của thân, trong miệng có quang minh của miệng, trong tâm có quang minh của tâm. Thân miệng ý ba nghiệp đều phóng quang. Bạn nghe nói qua cái này chưa? Ðây là nghe cái chưa nghe, thấy cái chưa thấy. Quang trên thân phóng ra là hoàng quang (quang minh màu vàng). Tu thành công rồi liền thành kim quang, kim quang vạn đạo. Bắt đầu tu Chú Lăng Nghiêm là hoàng quang, lâu dần thì biến thành kim quang.

Cho nên nói: “Tử ma kim sắc vạn đạo quang minh sung mãn pháp giới”. Nghĩa là vạn luồng hào quang vàng tía đầy khắp pháp giới. Ðều do tu Chú Lăng Nghiêm mà thành. Quang minh trong miệng phóng ra là hồng quang (quang minh màu đỏ). Quang minh trong tâm phóng ra là bạch quang (quang minh màu trắng). Nhưng có khi trong miệng cũng phóng ra hoàng quang, có khi lại phóng thanh quang (quang minh màu xanh), có khi lại phóng ra hắc quang (quang minh màu đen). Có lúc quang minh xanh, vàng, đỏ, trắng, đen đều phóng ra. Bất quá phải tu thành rồi mới có được.

*

Nếu người không có đức hạnh, không có công đức lành thì dù có gặp được Chú cũng sẽ lầm lẫn, hai bên trái nhau. Nhìn thấy vàng cho là đồng, thấy vòng kim cương cho là pha lê. Thấy được Chú Lăng Nghiêm, nhưng mà cho rằng rất là tầm thường, không có gì, không biết là quý báu! Không biết là diệu, không biết công đức của Chú Lăng Nghiêm, là không thể nghĩ bàn. Nếu tu hành thì sẽ phóng quang. Vừa mới nói quang minh, không những chỉ thân miệng ý ba nghiệp thanh tịnh, phóng ra quang minh thanh tịnh, mà còn có quang minh mầu đỏ quấn chung quanh. Nếu bạn tụng Chú Lăng Nghiêm thì tự nhiên có quang minh mầu đỏ quấn chung quanh.

Tụng Chú Lăng Nghiêm lại có quang minh màu tím, quang minh màu trắng quay chuyển. Tại sao khi tụng Chú Lăng Nghiêm, thì yêu ma quỷ quái không dám xuất hiện? Vì sức mạnh quá lớn, khắp tận hư không biến pháp giới, không có chỗ nào mà không có tường quang khí đầy khắp. Cho nên có người tụng Chú Lăng Nghiêm, thì bổ thêm chánh khí cho trời đất. Một người tụng Chú Lăng Nghiêm là sức lực của một người, trăm người tụng Chú Lăng Nghiêm là sức lực của trăm người, như vậy thì yêu ma quỷ quái trên thế gian đều lão lão thực thực.

14 Điều Đặc Biệt Lưu Ý Khi Trì Tụng Chú Lăng Nghiêm

Hòa Thượng Tuyên Hóa Dạy:

1. Tiêu tai tức là bạn có tai nạn gì, tụng Chú thì liền tiêu trừ. Nhưng bạn còn phải trừ khử tai (nạn) trong tâm. Nếu bạn chỉ niệm Chú, mà trong tâm cứ khởi những vọng niệm không trong sạch nào tạp niệm đầy dẫy thì tai (nạn) căn bản không thể tiêu trừ được, niệm bất cứ Chú gì cũng vô dụng. Do đó muốn tiêu tai thì trong tâm trước phải thanh tịnh, thu thập tâm cho sạch sẽ, đó mới là chân tiêu tai. Nếu không, trong tâm đầy dẫy tham sân si thì niệm Chú gì cũng không linh.

Do đó trong tâm là quan trọng nhất. Tâm nhất định phải từ bi lương thiện, giúp đỡ mọi người, chỉ có một thứ tâm tốt. Ðây là tăng ích tiêu tai pháp. Nhiếp triệu tức quân triệu pháp, giống như cảnh sát bắt phạm nhân, yêu ma quỷ quái làm việc ác, khiến cho người sinh bệnh, sinh tai nạn, khi bạn tụng Chú thì yêu ma quỷ quái bò ra. Nhưng bò là bò ra, song có thời chúng không phục, phải dùng đủ thứ phương pháp để giáo hóa chúng.

Riêng hàng phục là hạ đẳng pháp. Thượng đẳng pháp không dùng bất cứ thế lực nào để đàn áp bức bách bất cứ ai, và bất cứ yêu ma quỷ quái, không thể đấu tranh với chúng. Ðừng học A Tu La đấu tranh kiên cố như thế. Tự mình biết rõ có một sức lực có thể hàng phục chúng, cũng đừng dùng. Phải dùng đức hạnh để giáo hóa chúng, cảm hóa chúng.

*

2. Bất cứ tu pháp gì đều phải lấy bồ đề đạo tâm làm chủ, đại từ đại bi, đại hỷ đại xả. Không thể dùng đạo lực để áp bức bất cứ ai hoặc bất cứ yêu ma quỷ quái.

3. Nếu bạn thường nói với kẻ khác rằng bạn trì Chú có linh cảm hiệu lực gì, niệm Chú Ðại Bi trị được bệnh gì, niệm Chú Lăng Nghiêm lại đắc được cảm ứng gì. Ðó cũng giống như bán thuốc cao, đây gọi là rao bán sự tu hành, không đúng. Nếu như thế thì sẽ gặp tai họa. cũng không đắc được sự lợi ích không nghĩ bàn của bốn tất ích.

*

4. Nếu người thực hành hy vọng tu pháp muốn mau chóng đắc được lợi ích và thành tựu của Chú thì các phương pháp tu hành không được tơ hào khuyết phạm. Không thể không giữ quy cụ. Không thể cứ nghĩ đi lường gạt người, đi chiếm tiện nghi của người thì không được, như thế không những một chút cảm ứng cũng không có, ngược lại sẽ có tai họa. Nếu cứ khoe khoang công đức của mình thì sẽ có sự sơ hở, ma liền được tiện lợi, cũng giống như bạn có báu vật, không cất giữ nó mà lại để ngoài cửa thì nhất định bị người trộm đi.

Cho nên tu Phật Pháp nhất định phải cẩn thận, đừng để thiên ma ngoại đạo được tiện lợi. Phải từ từ trì tụng. Trì Chú phải giống như mặc y, ăn cơm, ngủ nghỉ. Mỗi ngày không thể thiếu, phải lâu dài bền bỉ không được gián đoạn. Quán tưởng chữ Phạn cũng phải nhứt nhứt tinh thục, mọi việc phải tương ưng. Mỗi sự việc đều phải như pháp mới đắc được lực lượng không thể nghĩ bàn, mới thành tựu được du già vô tác diệu hạnh.

5. Trong tâm đừng khởi vọng tưởng, nghĩ tưởng viễn vông, mơ những điều không thể có hoặc là nói chuyện với người. Nếu bạn tụng Chú gián đoạn thì tất địa không thành. Tất địa tức là tam muội.

*

6. Nếu bạn không giữ quy cụ, không giữ giới luật, hoặc trong tâm cứ khởi vọng tưởng nhiễm ô thì không những tu pháp không thể thành tựu, mà còn có họa của nó. Cho nên tu pháp Lăng Nghiêm phải đặc biệt chú ý. Thân miệng ý ba nghiệp phải thanh tịnh mới tương ưng, không để tùy tiện nói thị phi, hoặc khiến cho những người ở trong đạo tràng không được an lạc. Ðó là những điều không thể được. Nhất định phải quản thúc hành vi của mình, đi đứng nằm ngồi không rời khỏi nhà (tâm). Ðừng giặt đồ dơ thế người khác, phải từ từ chiếu cứ chính mình.

7. Phật Bộ, Liên Hoa Bộ, Kim Cang Bộ, Bảo Bộ, Yết Ma Bộ. Bộ chủ đều là minh vương, tức là Phật hoặc Bồ Tát. Các bậc ấy có tâm đại từ bi, không tổn hại chúng sinh. Nhưng đó đều là hộ pháp, thiên long, mãnh độc quỷ thần đều rất nóng giận. Mãnh quỷ ác thần thấy người tu pháp có lỗi lầm, liền cho họ một chút tai hại, hoặc là cho họ nhiều sự phiền não.

8. Phàm là người tu Chú này phải có đủ trí huệ, thấu rõ tất cả định và pháp nghiêm mật trong Chú. Pháp ngôn ngữ trong Chú cũng phải biết. Nhất định phải giữ giới Bồ Tát trong Kinh Phạm Võng, phát tâm bồ đề. Như thế thì có công đức trì giới và có công đức phát bồ đề tâm, mới cho phép bạn tu pháp này.

*

9. Thọ trì tất cả thần Chú có năm thứ không thể phạm. Ngũ tân tức là hành, hành tây, hẹ, tỏi, nén. Bất tịnh gia tức là nhà đĩ điếm hoặc là gia đình làm chuyện nhiễm ô. Nếu giữ được năm giới này thì tu pháp nhất định được lợi ích lớn và còn lợi ích chúng sinh.

10. Trong Pháp Uyển Châu Lâm nói là tại sao người xuất gia và người tại gia tụng trì Kinh Chú không công hiệu ? Vì tâm không chí thành khẩn thiết. Tu mệt, tu mà cảm thấy không có cảm ứng gì, liền bắt đầu phỉ báng, nói không có gì chứng minh, chẳng có linh nghiệm gì, nói Chú này là giả, Kinh này là giả.

Thực ra nguyên nhân trì Chú không linh là do văn tự ngụy tạo thay thế, hoặc âm vần niệm sai, hoặc uống rượu ăn thịt, hoặc ăn ngũ tân, hoặc đi đại tiểu tiện không rửa tay rồi cầm Kinh Chú, hoặc nói những lời thế tục, không giữ quy cụ, nói chuyện thị phi, hoặc mặc y phục không sạch sẽ, hoặc ở chỗ không nghiêm tịnh, phạm tám thứ giới pháp nói trên, khiến cho quỷ thần không cung kính, không những không có công đức, ngược lại có lỗi lầm.

11. Nếu như bạn muốn tu pháp Chú Lăng Nghiêm, thì phải tắm rửa, súc miệng sạch sẽ. Phải có tâm chí thành khẩn thiết, thời thời khắc khắc không quên, khắp vì Chúng sinh trong lục đạo trời, người A tu la, súc sinh, ngạ quỷ và địa ngục mà phát tâm bồ đề, không lười biếng giải đãi, chí thành khẩn thiết như thế thì nhất định sẽ có ứng nghiệm.

*

12. Trong hiển mật viên thông nói lúc bạn dụng công trì Chú hoặc mộng thấy mình lạy Phật, mộng thấy Phật phóng quang minh, mộng thấy Phật đến rờ đầu, mộng thấy Phật vì bạn mà giảng Kinh thuyết pháp, hoặc mộng thấy Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn Thánh Tăng, hoặc thiên tướng trên trời, hoặc đủ thứ khác nhau, xuất kỳ những dị tướng rất đặc thù, hoặc mộng thấy thân mình bay lên hư không, hoặc cỡi ngựa qua sông, hoặc thấy đủ loại hương thơm quang minh tốt đẹp, đó là những cảnh giới tốt. Nếu đắc được những ứng nghiệm như thế thì tu thân miệng ý ba nghiệp phải cẩn thận, khiến cho thanh tịnh, phát đại bồ đề tâm và dụng tâm trì Chú thêm, không thể tuyên thuyết cảnh giới trong Chú. Không thể nói với người có bất cứ cảm ứng gì, kêu người tin bạn, có hảo cảm với bạn, hoặc kêu người cung kính bạn, tán thán bạn, những thứ đó đều không thể được. Chỉ đối với người đồng tu, đừng vì cung kính hoặc tán thán, mới có thể nói.

*

13. Trong Kinh Ðại Bi có nói: Nếu có người khẩn thiết niệm thì hoặc gặp ma chướng hoặc hốt nhiên sinh tâm sợ sệt, thân tâm bất an, hoặc nhiều nóng giận, hoặc thích ngủ, hoặc đầu lưỡi không thể niệm, hoặc thấy những diệu tướng yêu ma quỷ quái. Những dị tướng ở đây với dị tướng ở trên không giống nhau. Những dị tướng ở đây là những tướng xấu, những dị tướng ở trên là những dị tướng cát tường.

Hoặc là sinh tâm nghi hoặc với Chú Lăng Nghiêm, hoặc tâm phân biệt, hoặc khởi vô minh chấp trước các hữu, bạn nhìn nghiệp chướng của người như thế nào đều có. Bây giờ bạn niệm từ từ Chú này rất khó được. Nếu có những cảnh giới không cát tường ở trên thì nên quán tưởng Phạn thư chữ Lam thì sẽ khiến bạn thanh tịnh, hoặc quán chữ A thì những cảnh giới không cát tường ở trên sẽ tiêu diệt. Phải biết nhân duyên pháp vốn là không.

14. Ngũ hội chân ngôn dưới đây tuy nhiên y cứ cổ đức phiên dịch, hướng về người tương lai truyền pháp thì hoặc niệm ra tiếng hoặc niệm trong tâm, bất tất phải chấp trước. Ðiều nên nói thì bạn không nói như dạy người tu hành như thế nào thì bạn không nói, điều không nên nói thì bạn nói như bạn nói đắc được cảnh giới gì, sự linh nghiệm, khai ngộ chứng quả, thành Phật. Ðó là đại vọng ngữ, không thể nói.

Cách Tụng Chú Lăng Nghiêm Tại Nhà

Để trì tụng Chú Lăng Nghiêm bạn nên học thuộc lòng là tốt nhất. Nhưng nếu không thể học thuộc được thì cứ chí thành khẩn thiết mà đọc trong sách, chỉ cần giữ thân tâm thanh tịnh là tụng được. Bạn là người tại gia nên chỉ cần giữ được thân tâm trang nghiêm thanh tịnh, hễ có thời gian rảnh thì tụng. Trước khi vào tụng chú phải tắm rửa, đánh răng, áo quần sạch sẽ. Nhà có bàn thờ Phật thì thắp hương rồi ngồi tụng, nếu chẳng có thì ngồi ở căn phòng sạch sẽ mà tụng, cũng mầu nhiệm vô cùng. Dưới đây là cách tụng Chú Lăng Nghiêm mà người bạn đạo của Tuệ Tâm thường trì tụng tại nhà:

1. Phát Nguyện:

Bạn chắp tay rồi phát nguyện tụng chú như sau:

“Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật(03 lần). Nay con vì khắp pháp giới chúng sanh, vì linh hồn ông bà tổ tiên, thân gia quyến thuộc của con và hết thảy các chúng sanh có nhân duyên với con trong từ vô thỉ kiếp đến nay mà trì tụng chú Lăng Nghiêm. Con cầu nguyện Tam Bảo từ bi phóng quang, gia hộ cho hết thảy cùng lìa khổ được vui, đồng trọn thành Phật Đạo. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật(03 lần)”

2. Lập Chú Đàn

Bạn theo lời dạy của Hòa Thượng Tuyên Hóa mà lập Chú Đàn bằng cách niệm ba bài Chú ngắn sau, mỗi bài bảy biến là thành Chú Đàn.

  • Thứ nhất là bảy biến Pháp Giới Chân Ngôn: “Án phạ nhật la đà đổ một”. Niệm rồi thì pháp giới đều thanh tịnh.
  • Thứ hai là bảy biến Thanh Tịnh Chân Ngôn: “Án lam sa ha”.
  • Thứ ba là khi Phóng Diệm Khẩu thì niệm Ba Ðàn Chân Ngôn: “Án hạ hồng”. Ba đàn tức là Phật, Pháp, Tăng. Chữ “Án” là trên đỉnh Tỳ Lô làm Phật đàn. Chữ “Hạ” là trong miệng Di Ðà làm Pháp đàn. Chữ “Hồng” là trong tâm A Súc làm Tăng đàn.
3. Đọc bài Tán Phật

Bạn chắp tay đọc:

Pháp vương Vô thượng Tôn

Tam giới vô luân thất,

Thiên nhơn chi Ðạo sư,

Tứ sanh chi Từ phụ,

Ư nhứt niệm quy y,

Năng diệt tam kỳ nghiệp,

Xưng dương nhược tán thán,

Ước kiếp mạc năng tận.

Năng lễ sở lễ tánh không tịch,

Cảm ứng đạo giao nan tư nghì,

ngã thử đạo tràng như đế châu.

Thập phương chư Phật ảnh hiện trung.

Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền.

Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới quá hiện vị lai, Thập Phương Chư Phật. Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng thường trú Tam Bảo. (01 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật. Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. Hộ Pháp Chư Tôn, Bồ Tát Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (01 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật. Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. Đại Thế Chí Bồ Tát. Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (01 lạy)

Nam mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát.(03 lần, mỗi lần 01 lạy)

*

Diệu trạm tổng trì Bất Động Tôn, Thủ Lăng Nghiêm vương thế hi hữu. Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng. Bất lịch Tăng kỳ hoạch pháp thân. Nguyện kim đắc quả thành Bảo vương, hườn độ như thị Hằng sa chúng, tương thử thâm tâm phụng trần sát, thị tắc danh vi báo phật ân. Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh, ngũ trược ác thế thệ tiên nhập, như nhứt chúng sinh vị thành Phật, chung bất ư thử thủ Nê-hoàn. Đại hùng đại lực đại từ-bi, hi cánh thẩm trừ vi tế hoặc, linh ngã tảo đăng vô thượng giác, ư thập phương giới tọa đạo tràng. Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong, thước-ca-ra tâm vô động chuyển.

Nam mô thường trụ thập phương Phật.

Nam mô thường trụ thập phương Pháp.

Nam mô thường trụ thập phương Tăng.

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam mô Phật Ðảnh Thủ Lăng Nghiêm.

Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.

Nam mô Kim Cang Tạng Bồ Tát.

Nhĩ thời Thế Tôn, tùng nhục kế trung, dõng bá bảo quang, quang trung dõng xuất, thiên diệp bảo liên, hữu hóa Như Lai, tọa bảo hoa trung, đảnh phóng thập đạo, bá bảo quang minh, nhất nhất quang minh, giai biến thị hiện thập Hằng hà sa, Kim Cang Mật Tích, kình sơn trì sử, biến hư không giới, đại chúng ngưỡng quan, ủy ái kiêm bảo, cầu Phật ai hựu, nhứt tâm thính Phật, vô kiến đảnh tướng, phóng quang Như Lai, tuyên thuyết Thần Chú.

4. Tụng Chú Lăng Nghiêm.

Chú Lăng Nghiêm

*

Chú Lăng Nghiêm: Đệ Nhất

  1. Nam mô tát đát tha.
  2. Tô già đa da.
  3. A ra ha đế.
  4. Tam miệu tam bồ đà tỏa.
  5. Nam mô tát đát tha.
  6. Phật đà cu tri sắc ni sam.
  7. Nam mô tát bà.
  8. Bột đà bột địa.
  9. Tát đa bệ tệ.
  10. Nam mô tát đa nẩm.
  11. Tam miệu tam bồ đà.
  12. Cu tri nẩm.
  13. Ta xá ra bà ca.
  14. Tăng già nẩm.
  15. Nam mô lô kê A La Hán đa nẩm.
  16. Nam mô tô lô đa ba na nẩm.
  17. Nam mô Ta yết rị đà dà di nẩm.
  18. Nam mô lô kê tam miệu dà đa nẩm.
  19. Tam miệu dà ba ra.
  20. Để ba đa na nẩm.
  21. Nam mô đề bà ly sắc nỏa.
  22. Nam mô tất đà da.
  23. Tỳ địa da.
  24. Đà ra ly sắt nỏa.
  25. Xá ba noa.
  26. Yết ra ha.
  27. Ta ha ta ra ma tha nẩm.
  28. Nam mô bạt ra ha ma ni.
  29. Nam mô nhân đà ra da.
  30. Nam mô bà dà bà đế.
  31. Lô đà ra da.
  32. Ô ma bát đế
  33. Ta hê dạ da.
  34. Nam mô bà dà bà đế
  35. Na la dã
  36. Noa da
  37. Bát dá ma ha tam mộ đà da.
  38. Nam mô tất yết lị đa da.
  39. Nam mô bà dà bà đế.
  40. Ma ha ca ra da.
    *
  41. Địa rị bát lặc na.
  42. Dà ra tỳ đà ra.
  43. Ba noa ca la da.
  44. A địa mục đế.
  45. Thi ma xá na nê.
  46. Bà tất nê.
  47. Ma đát rị dà noa.
  48. Nam mô tất yết lị đa da.
  49. Nam mô bà dà bà đế
  50. Đa tha dà đa câu ra da.
  51. Nam mô bát đầu ma câu ra da.
  52. Nam mô bạc xà ra câu ra da.
  53. Nam mô ma ni câu ra da.
  54. Nam mô dà xà câu ra da.
  55. Nam mô bà dà bà đế
  56. Đế rị trà
  57. Du ra tây na.
  58. Ba la ha ra noa ra xà da
  59. Đa tha dà đa gia.
  60. Nam mô bà dà bà đế.
  61. Nam mô A di đa bà da
  62. Đa tha dà đa da.
  63. A ra ha đế
  64. Tam miệu tam bồ đà da.
  65. Nam mô bà dà bà đế.
  66. A sô bệ da
  67. Đa tha dà đa da
  68. A ra ha đế
  69. Tam miệu tam bồ đà da.
  70. Nam mô bà dà bà đế
  71. Ti sa xà gia
  72. Câu lô phệ trụ rị da
  73. Bác ra bà ra xà da
  74. Đa tha dà đa da.
  75. Nam mô bà dà bà đế
  76. Tam bổ sư bí đa
  77. Tát lân nại ra lặc xà da
  78. Đa tha dà đa da
  79. A ra ha đế
  80. Tam miệu tam bồ đà da.
    *
  81. Nam mô bà dà bà đế
  82. Xá kê dã mẫu na duệ
  83. Đa tha dà đa da
  84. A la ha đế
  85. Tam miệu tam bồ đà da.
  86. Nam mô bà dà bà đế
  87. Lặc đát na kê đô ra xà da
  88. Đa tha già đa da
  89. A ra ha đế
  90. Tam miệu tam bồ đà da.
  91. Đế biều
  92. Nam mô tất yết rị đa
  93. Ế đàm bà dà bà đa.
  94. Tát đác tha dà đô sắc ni sam.
  95. Tát đác đa bát đác lam
  96. Nam mô a bà ra thị đam.
  97. Bát ra đế
  98. Dương kì ra
  99. Tát ra bà.
  100. Bộ đa yết ra ha
  101. Ni yết ra ha.
  102. Yết ca ra ha ni.
  103. Bạt ra bí địa da.
  104. Sất đà nễ.
  105. A ca ra.
  106. Mật rị trụ
  107. Bát rị đác ra da
  108. Nảnh yết rị.
  109. Tát ra bà
  110. Bàn đà na.
  111. Mục xoa ni
  112. Tát ra bà.
  113. Đột sắc tra.
  114. Đột tất phạp
  115. Bát na nể
  116. Phạt ra ni.
  117. Giả đô ra
  118. Thất đế nẩm.
  119. Yết ra ha.
  120. Ta ha tát ra nhã xà
    *
  121. Tỳ đa băng ta na yết rị
  122. A sắc tra băng xá đế nẩm
  123. Na xoa sác đát ra nhã xà.
  124. Ba ra tát đà na yết rị
  125. A sắt tra nẩm.
  126. Ma ha yết ra ha nhã xà
  127. Tỳ đa băng tát na yết rị.
  128. Tát bà xá đô lô
  129. Nễ bà ra nhã xà.
  130. Hô lam đột tất phạp
  131. Nan giá na xá ni.
  132. Bí sa xá.
  133. Tất đác ra
  134. A kiết ni.
  135. Ô đà ca ra nhã xà.
  136. A bát ra thị đa câu ra
  137. Ma ha bác ra chiến trì.
  138. Ma ha điệp đa.
  139. Ma ha đế xà.
  140. Ma ha thuế đa xà bà ra.
  141. Ma ha bạt ra bàn đà ra
  142. Bà tất nễ.
  143. A rị da đa ra
  144. Tỳ rị câu tri.
  145. Thệ bà tì xà da.
  146. Bạt xà ra ma lễ để
  147. Tỳ xá lô đa.
  148. Bột đằng dõng ca
  149. Bạt xà ra chế hắc na a giá.
  150. Ma la chế bà
  151. Bát ra chất đa.
  152. Bạt xà ra thiện trì.
  153. Tỳ xá ra giá
  154. Phiến đa xá.
  155. Tì đề bà
  156. Bổ thị đa
  157. Tô ma lô ba.
  158. Ma ha thuế đa
  159. A rị da đa ra.
  160. Ma ha bà la a bác ra.
    *
  161. Bạt xà ra thương yết ra chế bà.
  162. Bạt xà ra câu ma rị
  163. Câu lam đà rị.
  164. Bạt xà ra hắt tát đa dá
  165. Tỳ địa da
  166. Kiền dá na.
  167. Ma rị ca.
  168. Khuất tô mẫu.
  169. Bà yết ra đá na.
  170. Bệ lô giá na
  171. Câu rị da
  172. Dạ ra thố.
  173. Sắc ni sam
  174. Tỳ chiết lam bà ma ni giá.
  175. Bạt xà ra ca na ca ba ra bà.
  176. Lô xà na.
  177. Bạt xà ra đốn trỉ giá.
  178. Thuế đa giá
  179. Ca ma ra.
  180. Sát sa thi
  181. Ba ra bà.
  182. Ê đế di đế.
  183. Mẫu đà la.
  184. Yết noa.
  185. Ta bệ ra sám.
  186. Quật phạm đô.
  187. Ấn thố na ma ma toả.

    Chú Lăng Nghiêm: Đệ Nhị

  188. Ô hồng
  189. Rị sắc yết noa.
  190. Bát lặc xá tất đa.
  191. Tát đác tha
  192. Già đô sắt ni sam
  193. Hổ hồng đô lô ung
  194. Chiêm bà na.
  195. Hổ hồng đô lô ung
  196. tất đam bà na.
  197. Hổ hồng đô lô ung.
  198. Ba ra sắc địa da.
  199. Tam bác xoa
  200. Noa yết ra.
  201. Hổ hồng đô lô ung
  202. Tát bà dược xoa.
  203. Hắt ra sát ta.
  204. Yết ra ha nhã xà.
  205. Tỳ đằng băng tát na yết ra.
  206. Hổ hồng đô lô ung.
  207. Giả đô ra
  208. Thi để nẩm.
  209. Yết ra ha
  210. Ta ha tát ra nẩm.
  211. Tỳ đằng băng tát na ra.
  212. Hổ hồng đô lô ung
  213. Ra xoa.
  214. Bà già phạm.
  215. Tác đát tha.
  216. Già đô sắt ni sam.
  217. Ba ra điểm.
  218. Xà kiết rị
  219. Ma ha ta ha tát ra.
  220. Bột thọ ta ha tát ra
  221. Thất rị sa
  222. Câu tri ta ha tát nê.
  223. Đế lệ a tệ đề thị bà rị đa.
  224. Tra tra anh ca.
  225. Ma ha bạt xà lô đà ra.
  226. Đế rị bồ bà na.
  227. Mạn trà ra.
  228. Ô hồng
  229. Ta tất đế.
  230. Bạt bà đô.
  231. Mạ mạ
  232. Ấn thố na mạ mạ toả.

    Chú Lăng Nghiêm: Đệ Tam

  233. Ra xà bà dạ.
  234. Chủ ra bạt dạ.
  235. A kỳ ni bà dạ.
  236. Ô đà ca bà dạ.
  237. Tỳ xa bà dạ.
  238. Xá tát đa ra bà dạ.
  239. Bà ra chước yết ra bà dạ.
  240. Đột sắc xoa bà dạ.
  241. A xá nể bà dạ.
  242. A ca ra.
  243. Mật rị trụ bà dạ.
  244. Đà ra ni bộ di kiếm.
  245. Ba già ba đà bà dạ.
  246. Ô ra ca bà đa bà dạ.
  247. Lặc xà đàn trà bà dạ.
  248. Na dà bà dạ.
  249. Tỳ điều đát bà dạ.
  250. Tô ba ra noa bà dạ.
  251. Dược xoa yết ra ha.
  252. Ra xoa tư yết ra ha.
  253. Tất rị đa yết ra ha.
  254. Tỳ xá giá yết ra ha.
  255. Bộ đa yết ra ha.
  256. Cưu bàn trà yết ra ha.
  257. Bổ đơn na yết ra ha.
  258. Ca tra bổ đơn na yết ra ha.
  259. Tất kiền độ yết ra ha.
  260. A bá tất ma ra yết ra ha.
  261. Ô đàn ma đà yết ra ha.
  262. Xa dạ yết ra ha.
  263. Hê rị bà đế yết ra ha.
  264. Xả đa ha rị nẩm.
  265. Yết bà ha rị nẩm.
  266. Lô địa ra ha rị nẩm.
  267. Mang ta ha rị nẩm.
  268. Mê đà ha rị nẩm.
  269. Ma xà ha rị nẩm.
  270. Xà đa ha rị nữ.
  271. Thị tỷ đa ha rị nẩm.
  272. Tỳ đa ha rị nẩm.
  273. Bà đa ha rị nẩm.
    *
  274. A du giá ha rị nữ.
  275. Chất đa ha rị nữ.
  276. Đế sam tát bệ sam.
  277. Tát bà yết ra ha nẩm.
  278. Tỳ đà dạ xà.
  279. Sân đà dạ di.
  280. Kê ra dạ di.
  281. Ba rị bạt ra giả ca.
  282. Hất rị đởm.
  283. Tỳ đà dạ xà.
  284. Sân đà dạ di.
  285. Kê ra dạ di.
  286. Trà diễn ni.
  287. Hất rị đởm.
  288. Tỳ đà dạ xà.
  289. Sân đà dạ di.
  290. Kê ra dạ di.
  291. Ma ha bát du bát đác dạ.
  292. Lô đà ra.
  293. Hất rị đởm.
  294. Tỳ đà dạ xà.
  295. Sân đà dạ di.
  296. Kê ra dạ di.
  297. Na ra dạ noa.
  298. Hất rị đởm.
  299. Tỳ đà dạ xà.
  300. Sân đà dạ di.
  301. Kê ra dạ di.
  302. Đát đỏa dà lô trà tây.
  303. Hất rị đởm.
  304. Tỳ đà dạ xà.
  305. Sân đà dạ di.
  306. Kê ra dạ di.
  307. Ma ha ca ra.
  308. Ma đác rị già noa.
  309. Hất rị đởm.
  310. Tỳ đà dạ xà.
  311. Sân đà dạ di.
  312. Kê ra dạ di.
  313. Ca ba rị ca.
  314. Hất rị đởm.
  315. Tỳ đà dạ xà.
  316. Sân đà dạ di.
  317. Kê ra dạ di.
  318. Xà dạ yết ra.
  319. Ma độ yết ra
  320. Tát bà ra tha ta đạt na.
  321. Hất rị đởm.
  322. Tỳ đà dạ xà.
  323. Sân đà dạ di.
  324. Kê ra dạ di.
    *
  325. Giả đốt ra.
  326. Bà kỳ nể.
  327. Hất rị đởm.
  328. Tỳ đà dạ xà.
  329. Sân đà dạ di.
  330. Kê ra dạ di.
  331. Tỳ rị dương hất rị tri.
  332. Nan đà kê sa ra.
  333. Dà noa bác đế.
  334. Sách hê dạ.
  335. Hất rị đởm.
  336. Tỳ đà dạ xà.
  337. Sân đà dạ di.
  338. Kê ra dạ di.
  339. Na yết na xá ra bà noa.
  340. Hất rị đởm.
  341. Tỳ đà dạ xà.
  342. Sân đà dạ di.
  343. Kê ra dạ di.
  344. A la hán.
  345. Hất rị đởm.
  346. Tỳ đà dạ xà.
  347. Sân đà dạ di.
  348. Kê ra dạ di.
  349. Tỳ đa ra dà.
  350. Hất rị đởm.
  351. Tỳ đà dạ xà.
  352. Sân đà dạ di.
  353. Kê ra dạ di.
  354. Bạt xà ra ba nể.
  355. Câu hê dạ câu hê dạ.
  356. Ca địa bát đế.
  357. Hất rị đởm.
  358. Tỳ đà dạ xà.
  359. Sân đà dạ di.
  360. Kê ra dạ di.
  361. Ra xoa vỏng.
  362. Bà dà phạm.
  363. Ấn thố na mạ mạ tỏa.

    Chú Lăng Nghiêm: Đệ Tứ

  364. Bà già phạm.
  365. Tát đác đa bát đác ra.
  366. Nam mô tý đô đế.
  367. A tất đa na ra lặc ca.
  368. Ba ra bà.
  369. Tất phổ tra.
  370. Tỳ ca tát đác đa bát đế rị.
  371. Thập Phật ra thập Phật ra.
  372. Đà ra đà ra.
  373. Tần đà ra tần đà ra.
  374. Sân đà sân đà.
  375. Hổ hồng hổ hồng.
  376. Phấn tra phấn tra phấn tra phấn tra phấn tra.
  377. Ta ha.
  378. Hê hê phấn.
  379. A mâu ca da phấn.
  380. A ba ra đề ha da phấn.
  381. Ba ra bà ra đà phấn.
  382. A tố ra.
  383. Tỳ đà ra.
  384. Ba ca phấn.
  385. Tát bà đề bệ tệ phấn.
  386. Tát bà na dà tệ phấn.
  387. Tát bà dược xoa tệ phấn.
  388. Tát bà kiền thát bà tệ phấn.
  389. Tát bà bổ đơn na tệ phấn.
  390. Ca tra bổ đơn na tệ phấn.
  391. Tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn.
  392. Tát bà đột sáp tỷ lê.
  393. Hất sắc đế tệ phấn.
  394. Tát bà thập bà lê tệ phấn.
    *
  395. Tát bà a bá tất ma lê tệ phấn.
  396. Tát bà xá ra bà noa tệ phấn.
  397. Tát bà địa đế kê tệ phấn.
  398. Tát bà đát ma đà kê tệ phấn.
  399. Tát bà tỳ đà da.
  400. Ra thệ giá lê tệ phấn.
  401. Xà dạ yết ra.
  402. Ma độ yết ra.
  403. Tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn.
  404. Tỳ địa dạ.
  405. Giá lê tệ phấn.
  406. Giả đô ra.
  407. Phược kỳ nể tệ phấn.
  408. Bạt xà ra.
  409. Câu ma rị.
  410. Tỳ đà dạ.
  411. La thệ tệ phấn.
  412. Ma ha ba ra đinh dương.
  413. Xoa kỳ rị tệ phấn.
  414. Bạt xà ra thương yết ra dạ.
  415. Ba ra trượng kỳ ra xà da phấn.
  416. Ma ha ca ra dạ.
  417. Ma ha mạt đát rị ca noa.
  418. Nam-mô ta yết rị đa da phấn.
  419. Tỷ sắc noa tỳ duệ phấn.
  420. Bột ra ha mâu ni duệ phấn.
  421. A kỳ ni duệ phấn.
  422. Ma ha yết rị duệ phấn.
  423. Yết ra đàn tri duệ phấn.
  424. Miệc đát rị duệ phấn.
  425. Lao đát rị duệ phấn.
  426. Giá văn trà duệ phấn.
  427. Yết la ra đác rị duệ phấn.
  428. Ca bát rị duệ phấn.
  429. A địa mục chất đa.
  430. Ca thi ma xá na.
  431. Bà tư nể duệ phấn.
  432. Diễn kiết chất.
  433. Tát đỏa bà tỏa.
  434. Mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.

    Chú Lăng Nghiêm: Đệ Ngũ

  435. Đột sắc tra chất đa.
  436. A mạt đác rị chất đa.
  437. Ô xà ha ra.
  438. Dà ba ha ra.
  439. Lô địa ra ha ra.
  440. Ta bà ha ra.
  441. Ma xà ha ra.
  442. Xà đa ha ra.
  443. Thị tỉ đa ha ra.
  444. Bạt lược dạ ha ra.
  445. Kiền đà ha ra.
  446. Bố sử ba ha ra.
  447. Phả ra ha ra.
  448. Bà tả ha ra.
  449. Bát ba chất đa.
  450. Đột sắc tra chất đa.
  451. Lao đà ra chất đa.
  452. Dược xoa yết ra ha.
  453. Ra sát ta yết ra ha.
  454. Bế lệ đa yết ra ha.
  455. Tỳ xá giá yết ra ha.
  456. Bộ đa yết ra ha.
  457. Cưu bàn trà yết ra ha.
  458. Tất kiền đà yết ra ha.
  459. Ô đát ma đà yết ra ha.
  460. Xa dạ yết ra ha.
  461. A bá tất ma ra yết ra ha.
  462. Trạch khê cách.
  463. Trà kỳ ni yết ra ha.
  464. Rị Phật đế yết ra ha.
  465. Xà di ca yết ra ha.
  466. Xá câu ni yết ra ha.
  467. Lao đà ra.
  468. Nan địa ca yết ra ha.
  469. A lam bà yết ra ha.
  470. Kiền độ ba ni yết ra ha.
  471. Thập phạt ra.
  472. Yên ca hê ca.
  473. Trị đế dược ca.
  474. Đát lệ đế dược ca.
  475. Giả đột thác ca.
    *
  476. Ni đề thập phạt ra.
  477. Tỉ sam ma thập phạt ra.
  478. Bạt để ca.
  479. Tỷ để ca.
  480. Thất lệ sắc mật ca.
  481. Ta nể bát để ca.
  482. Tát bà thập phạt ra.
  483. Thất lô kiết đế.
  484. Mạt đà bệ đạt lô chế kiếm.
  485. A ỷ lô kiềm.
  486. Mục khê lô kiềm.
  487. Yết rị đột lô kiềm.
  488. Yết ra ha.
  489. Yết lam yết noa du lam.
  490. Đản đa du lam.
  491. Hất rị dạ du lam.
  492. Mạt mạ du lam.
  493. Bạt rị thất bà du lam.
  494. Tỷ lật sắc tra du lam.
  495. Ô đà ra du lam.
  496. Yết tri du lam.
  497. Bạt tất đế du lam.
  498. Ô lô du lam.
  499. Thường dà du lam.
  500. Hắc tất đa du lam.
  501. Bạt đà du lam.
  502. Ta phòng án dà.
  503. Bát ra trượng dà du lam.
  504. Bộ đa tỷ đa trà.
  505. Trà kỳ ni.
  506. Thập bà ra.
  507. Đà đột lô ca.
  508. Kiến đốt lô kiết tri.
  509. Bà lộ đa tỳ.
  510. Tát bát lô.
  511. Ha lăng già.
  512. Du sa đát ra.
  513. Ta na yết ra.
  514. Tỳ sa dụ ca.
  515. A kỳ ni.
    *
  516. Ô đà ca.
  517. Mạt ra bệ ra.
  518. Kiến đa ra.
  519. A ca ra.
  520. Mật rị đốt.
  521. Đát liểm bộ ca.
  522. Địa lật lặc tra.
  523. Tỷ rị sắc chất ca.
  524. Tát bà na câu ra.
  525. Tứ dẫn dà tệ.
  526. Yết ra rị dược xoa.
  527. Đác ra sô.
  528. Mạt ra thị.
  529. Phệ đế sam.
  530. Ta bệ sam.
  531. Tất đát đa bát đác ra.
  532. Ma ha bạt xà lô.
  533. Sắc ni sam.
  534. Ma ha bát lặc trượng kỳ lam.
  535. Dạ ba đột đà.
  536. Xá dụ xà na.
  537. Biện đát lệ noa.
  538. Tỳ đà da.
  539. Bàn đàm ca lô di.
  540. Đế thù.
  541. Bàn đàm ca lô di.
  542. Bát ra tỳ đà.
  543. Bàn đàm ca lô di.
  544. Đát điệt tha
  545. Án
  546. A na lệ
  547. Tỳ xá đề
  548. Bệ ra
  549. Bạt xà ra
  550. Đà rị.
  551. Bàn đà bàn đà nể
  552. Bạt xà ra bán ni phấn.
  553. Hổ hồng đô lô ung phấn
  554. Ta bà ha.
5. Tụng Tâm Chú Lăng Nghiêm (108 biến)

Ðát điệt tha. Án a na lệ tì xá đề, bệ ra bạt xa ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàng ni, phấn hổ hồng đô lô ung, phấn ta bà ha.”

6. Hồi hướng công đức

Sau khi đã tụng bao nhiêu biến chú ấy rồi, bạn cần hồi hướng công đức để viên mãn thời khóa, bằng cách chắp tay đọc như sau: “Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật(03 lần, mỗi lần 01 lạy). Con nguyện hồi hướng công đức tụng chú Lăng Nghiêm này cho Pháp giới chúng sanh, cho linh hồn ông bà tổ tiên, thân gia quyến thuộc của con trong từ vô thỉ kiếp đến nay; và cho hết thảy các chúng sanh có nhân duyên với con trong từ vô thỉ kiếp đến nay. Nguyện cho tất cả cùng lìa khổ được vui, đồng trọn thành Phật Đạo. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật(03 lần, mỗi lần 01 lạy)”

(Theo Chú Lăng Nghiêm Giảng giải – Hòa Thượng Tuyên Hóa)