Lừng lững một biểu tượng
Chắc hẳn nhiều người đã nghe đến một loài cây đặc trưng ở miền cao nguyên qua bài hát “Bóng cây Kơ nia” được phổ nhạc từ bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Ngọc Anh. Tuy nhiên, hình dáng và thế đứng của cây đó có lẽ không nhiều người có thể tưởng tượng ra. Ngay cả đối với những người trẻ Jrai, Ê Đê, Xê Đăng, Ba Na… Sống ở vùng đất này, cây đó cũng ít được thấy.
Amí Toan, một người dân làng Ah, xã Ia mơ Nông, huyện Chư Păh, Gia Lai, ngồi nghỉ trên cầu thang của ngôi nhà gỗ. Anh ta nhìn về phía nhà mồ của làng, chỉ thấy một cây Kơ nia duy nhất. Đó là một cây Kơ nia nhỏ, phát triển từ gốc cây Kơ nia mẹ đã qua đời từ nhiều thập kỷ trước đây.
Cây Kơ nia con được cho là cùng tuổi với Amí Toan. Sau giải phóng năm 75, vùng này có rất nhiều cây, đến mức có cây có thể ôm được bởi 2-3 người. Tuy nhiên, hiện tại chỉ còn vài cây xung quanh vùng này.
Trong ký ức của Amí Toan, vẫn còn lưu giữ câu chuyện xưa kể rằng, ngày xưa có một cặp vợ chồng nghèo đã già mà không có con. Cả hai đều rất buồn bã vì cả đời họ sống đầy thiện lương, ông đã đi đến chân núi thờ 7 ngày 7 đêm liền. Yang, nhận thấy lòng thành và lòng trắc ẩn, đã giúp đôi vợ chồng đó có một cô con gái.
Vào ngày đặt tên, vợ chồng ông quyết định đặt tên cho con gái là K’nia. Dù cha mẹ đã mất nhưng gia đình vẫn nợ nần và K’nia bị ép phải làm người ở. Công việc vất vả khiến cô mệt mỏi, và cô nằm nghỉ trên mảnh đất cằn cỗi trên triền đồi. Từ nơi mộ cô, một cây trồng lên cao thẳng tắp. Những cành cây trông giống như những cánh tay vươn rộng và mạnh mẽ giữa bầu trời xanh.
Các trận dông bão quét qua và đánh đổ những loài cây khác, nhưng cây Kơ nia vẫn tồn tại mạnh mẽ và kiên cường. Nhờ sự che chở của nó, những mùa rẫy sau cánh đồng trở nên tươi tốt hơn, với thu hoạch lúa bội thu. Những người nghèo được chủ động phân phát phần lúa này. Dân làng đã đặt tên cây là Kơ nia và giữ nguyên tên này khi phát hiện cây, vì họ tin rằng đó là nơi trú ngụ của thần linh và linh hồn của những người đã khuất.
Từ câu chuyện đó, có lẽ vì sức sống vững vàng, mãnh liệt, không có cây nào bền bỉ như cây Kơ nia, không rụng lá trong bất kỳ mùa nào. Nó đã trở thành một huyền thoại. Cây Kơ nia không hiểu tại sao lại là một loài cây cô độc, thường mọc một mình giữa rừng, trên những đồi cao, hay trong những lũng sâu. Rất hiếm mới thấy cây Kơ nia mọc thành đôi, hoặc thậm chí là ba.
Amí Toan nói rằng, Kơ nia trên những triền thảo nguyên nắng gió không bao giờ mọc nhiều, nó vươn cao hơn so với những cây rừng khác. Trong 6 tháng mùa khô nắng lửa, cây vẫn giữ nguyên màu xanh thủy chung. Điều đáng ngạc nhiên là càng nắng, cây càng trở nên xanh tốt hơn.
Cây Kơ nia vươn cao thẳng tắp giữa đại ngàn. Những cành cây như những cánh tay gân guốc mạnh mẽ giữa bầu trời xanh. Dông bão và bom đạn chiến tranh đã quật đổ nhiều loài cây, nhưng Kơ nia vẫn đứng vững, không chùn bước. Cây Kơ nia được so sánh với người Tây Nguyên, vững vàng, kiên trung, không bị khuất phục.
Theo Amí Toan, trong quá khứ, khi bà con đốn rừng để làm đồng ruộng, họ thường để lại những cây Kơ nia để tạo bóng mát. Những loại cây khác thường gây ảnh hưởng đến cây trồng, nhưng cây Kơ nia không gây hại gì.
Các bà mẹ vất vả đang địu những đứa con trên lưng trong những ngày làm việc vất vả trên cánh đồng. Khi cảm thấy mệt mỏi, họ thường đặt con dưới bóng mát của cây Kơ nia. Hoặc, giữa buổi trưa nắng, chỉ cần dừng chân một lát dưới cái bóng của cây này cũng làm tan biến mệt mỏi.
Trước đây, người làm rẫy khi cảm thấy no bụng, họ hái lá Kơ nia về nấu nước và uống vài ngụm để giảm cảm giác no; nếu bị bệnh sốt rét rừng, một loại bệnh mà người dân tin là do ma ám, họ uống nước nấu từ cây Kơ nia để chữa bệnh. Rất nhiều trẻ em đã lớn lên dưới bóng mát của cây Kơ nia. Hình ảnh của cây Kơ nia liên kết với tình yêu của nhiều bà mẹ vùng Tây Nguyên không tên.
Có thể như vậy, nhưng hầu như một cách không tự ý, Kơ nia trở nên quen thuộc, hiện diện trong tiềm thức sâu thẳm của mỗi đứa trẻ sinh ra và lớn lên giữa vùng Tây Nguyên rộng lớn.
Già Rơ Châm Chuck (người ở làng Phung, xã Ia Mơ Nông) nhớ mãi không quên: “Trong quá khứ, tôi từng thấy cây Kơ nia hiện diện khắp mọi nơi: dọc chân núi, bên ven đồi, ở đầu buôn, ven suối… Tuy nhiên, con người đã đốn hạ, chặt cây, và phá hủy rừng để làm đất canh tác. Các cây Kơ nia cũng chịu cùng số phận bi thảm với những khu rừng khác. Đôi lần, người ta còn có ý định chặt hạ cả những cây Kơ nia ở đầu buôn để lấy đất xây nhà, xây quán.”
Tuy nhiên, sự già làng đã ngăn cản việc đó. Vì Kơ nia là người thân thiết của buôn làng, là linh hồn của buôn làng, phải duy trì điều đó!”. Hiện tại, Kơ nia, người thân yêu của làng Phung, vẫn đứng đó, mở rộng vòng tay tại bến nước, tạo bóng mát dọc theo con đường buôn để người làng có thể nghỉ ngơi sau những giờ làm việc mệt mỏi.
Thao thiết gió triền đồi
Kơ nia có thể phát triển cao đến 30-40 mét và đường kính vòng thân trên dưới nửa mét. Tán lá luôn có hình bầu dục và mọc thẳng lên trời. Cây luôn xanh tốt quanh năm vì không có mùa thay lá. Trước đây, Kơ nia rất phổ biến ở khắp nơi ở Tây Nguyên.
Bên lề con đường, những ánh mặt trời chiếu lên những cánh đồng Kơ nia, như những cánh buồm trôi dập dềnh. Hình ảnh đó luôn đọng lại trong lòng người dân như một kỷ niệm thân thương. Nhưng cuộc sống khắc nghiệt đã khiến nhiều người phải chấp nhận cuộc sống khác, bán than để sống qua ngày. Kơ nia dần trở nên hiếm hơn và lùi xa những nơi đông đúc, đặc biệt là xung quanh các khu đô thị, chỉ còn tồn tại ít ỏi ở những vùng xa xôi.
Vào cuối tháng 4, trong mùa khô của Tây Nguyên, gió vẫn thổi mạnh qua đồi dốc, ánh nắng vẫn rực rỡ vàng óng, những cánh đồng cao su, cà phê, tiêu vẫn xanh tươi không gian, tạo nên một cảnh quan ấn tượng và yên bình.
Ở vùng đất này, những cây Kơ nia đã trở nên hiếm hơn. Nhưng trong lòng già Rơ Châm Chuck, vẫn còn những kỷ niệm về thời kỳ vùng này đầy ắp Kơ nia. Mỗi khi nhìn về hướng mặt trời mọc, anh thấy có vài cây Kơ nia. Khi mặt trời lặn, cũng có vài cây hiện ra trong tầm nhìn anh. Ngay cả từ phía núi Păh, cây Kơ nia cũng vươn lên khỏi rừng xanh, tạo thành những điểm nhấn cho các làng xung quanh.
Nhìn về phía đó, người già Chuck nhận ra đó là làng Kep, còn phía kia là làng Ah, và phía kia nữa là làng B’loi hoặc làng Mun. Xa xa hơn, nơi con sông Sê San đã trở thành lòng hồ thủy điện Ialy, có làng Yã và nhiều làng khác. Chỉ cần thấy cây, là biết rằng có làng.
Không chỉ Chuck già mà cả những người ở các làng khác, ở các vùng đất khác như cao nguyên Kon Tum, cao nguyên Lâm Viên, vùng thung lũng Ayun, vùng An Khê của các tộc người Ê Đê, Xê Đăng, Ba Na… Đều vô cùng quan tâm đến Kơ nia.
Kơ nia không chỉ là một cây bóng mát, mà còn là biểu tượng của sự anh dũng và khắc nghiệt của vùng cao nguyên này. Trong những ngày chiến đấu đầy cam go, nhiều người đã tìm sự che chở dưới bóng mát của Kơ nia, và nhờ hạt Kơ nia mà họ có thể chống đói. Những lúc im lặng giữa tiếng súng, những người như già Chuck lại ngồi dưới bóng mát của một cây cổ thụ trăm năm, để nhớ một khúc dân ca vang lên từ ký ức, như những ngày thơ bé trên lưng của mẹ.
Chuck già bước vào nhà với sự phấn khởi, “Bây giờ Kơ nia còn ít quá!” Câu chuyện lặng lẽ bắt đầu. Chuck trò chuyện với nhóm trẻ bằng ngôn ngữ Jrai, và nhóm trẻ trở nên phấn khởi. Họ mang ra một rổ hạt, nhấn mạnh, “Chúng tôi thường nhặt quả Kơ nia khi đi chăn bò, nó ngon lắm. Hạt nó giống đậu phộng với hương vị béo bùi. Cả nai và con nai đều thích ăn quả này!”
Rốt cục, số lượng Kơ nia đã giảm đáng kể, nhưng vẫn còn thấy những cây Kơ nia con ẩn mình trong những khu rừng da báo hoặc những cánh đồng. Và khi mùa đến, người dân trong làng lại tìm đến gốc cây để hái quả. Điều thú vị là cây Kơ nia có thể là cây đực hoặc cây cái.
Cây cái thường đổ quả kiểu như hạt dẻ sau mỗi năm hoặc 2-3 năm, quả có vị béo và thơm ngọt đến tận đầu lưỡi. Quả Kơ nia khi mới chín rụng xuống, một phần thịt bên ngoài có vị ngọt. Trái xanh có vị chua và người dân thường kho cá suối cùng với nó. Sau khi trái rụng một thời gian, lớp vỏ thịt mỏng bên ngoài sẽ phân hủy, chỉ để lại hạt được bọc bởi lớp vỏ gỗ, cho phép nó tồn tại mà không hỏng suốt cả năm.
Trong những năm gần đây, hạt Kơ nia đã trở thành một món ăn vặt phổ biến thay thế cho hạt bí, hạt dưa. Một lần thưởng thức và bạn sẽ nhớ mãi. Vì vậy, mỗi khi du khách đến Tây Nguyên, họ luôn tìm mua một ít hạt Kơ nia làm quà. Điều này đã tạo ra một nguồn thu nhập đáng kể cho người dân khi mùa Kơ nia rụng quả, với hạt đặc sản đặc biệt từ núi rừng Tây Nguyên.
Chiều tà đang lan tỏa ánh nắng vàng rực trên bầu trời phía Tây, tôi dừng chân lại và tận hưởng cảm giác sâu lắng hơn về loài cây biểu tượng này. Tiếng lá vỗ rì rầm nhẹ nhàng như những lời thủ thỉ từ quá khứ vang vọng, tiếng chim hót vang lên trên cao, tạo nên một bản nhạc đầy mê hoặc.
Đôi khi, đàn chim bay lên giữa không trung rồi lại quay trở về nơi thân quen trên những cành cây trải dài giữa bầu trời. Không biết có những vùng đất nào khác trên cao nguyên này vẫn còn giữ lại nhiều cây Kơ nia không, dù loài cây này được gọi là “mồ côi” vì không mọc thành rừng mà phân tán và một mình.
Nó tồn tại như một trọng ám ảnh trong các cộng đồng buôn làng ở Tây Nguyên. Dù hiện nay, cây Kơ nia đã được liệt kê trong Sách Đỏ vì tại Tây Nguyên, loài cây này cũng đã trở nên hiếm. Làm sao để không để Kơ nia chỉ còn lại trong ký ức? Và có thể, sau này, nếu không được bảo tồn ngay từ bây giờ, Kơ nia cũng có thể chỉ là một kỷ niệm, giống như cách Amí Toan hay già Chuck vẫn nhớ đến.
Tôi là Nguyễn Văn Sỹ có 15 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thiết kế, thi công đồ nội thất; với niềm đam mê và yêu nghề tôi đã tạo ra những thiết kếtuyệt vời trong phòng khách, phòng bếp, phòng ngủ, sân vườn… Ngoài ra với khả năng nghiên cứu, tìm tòi học hỏi các kiến thức đời sống xã hội và sự kiện, tôi đã đưa ra những kiến thức bổ ích tại website nhaxinhplaza.vn. Hy vọng những kiến thức mà tôi chia sẻ này sẽ giúp ích cho bạn!