Tội phạm ít nghiêm trọng là gì? Quy định về tội phạm ít nghiêm trọng?

Căn cứ vào tính chất nguy hiểm của hành vi, khoa học pháp lý hình sự cũng như thực tiễn pháp luật chia tội phạm thành 4 loại. Mỗi loại tội phạm có những đặc điểm riêng, có ý nghĩa về lý luận cũng như việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với mỗi loại tội phạm trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.

Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Tội phạm và phân loại tội phạm:

Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.

Đặc điểm của tội phạm:

– Tính nguy hiểm cho xã hội: Tính hiểm cho xã hội là dâu hiệu cơ bản, quan trọng nguy nhất, quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Do có tính nguy hiểm cho xã hội nên hành vi được quy định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu hình phạt. Nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu về nội dung của tội phạm. Dấu hiệu này quy định dấu hiệu về hình thức của tội phạm là dầu hiệu được quy định trong luật hình sự. Những định nghĩa tội phạm có dầu hiệu nguy hiểm cho xã hội được gọi là định nghĩa tội phạm về nội dung. Trái lại, những định nghĩa tội phạm không có dấu hiệu này được gọi là định nghĩa tội phạm về hình thức.

– Đặc điểm có lỗi: Lỗi là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi (có tính gây thiệt hại cho xã hội) của mình và đối với hậu quả của hành vi đó thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Người thực hiện hành vi có tính gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu họ đã lựa chọn và thực hiện trong khi họ có đủ điều kiện lựa chọn xử sự khác không gây thiệt hại cho xã hội.

– Đặc điểm được quy định trong Bộ luật hình sự: Theo Điều 8 BLHS, hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ có thể bị coi là tội phạm nếu “… được quy định trong BLHS…”. Như vậy, tính được quy định trong luật hình sự là dầu hiệu đòi hỏi phải có ở hành vi bị coi là tội phạm. Việc xác định tội phạm phải được luật hình sự quy định là sự thừa nhận nguyên tắc đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc: “Không ai bị kết án vì một hành vi mà lúc họ thực hiện luật pháp quốc gia hay quốc tế không coi là tội phạm” (khoản 2 Điều 11). Trong sự thống nhất với việc xóa bỏ nguyên tắc tương tự và cấm hồi tố, việc khẳng định dấu hiệu này của tội phạm là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc pháp chế.

– Đặc điểm “do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện”: Đây là dấu hiệu về chủ thể thực hiện hành vi cho xã hội. Theo đó, chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho nguy hiểm xã hội phải là người có năng lực TNHS. Đó là người đủ tuổi chịu TNHS theo quy định của luật và không thuộc trường hợp mất năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiến hành vi do mắc bệnh. Năng lực TNHS là năng lực pháp lí được Nhà nước xác định và thế hiện chính sách hình sự của Nhà nước. Do có ý nghĩa như vậy nên dầu hiệu về chủ thể cần được coi là một dấu hiệu của tội phạm, mặc dù dầu hiệu này thực ra đã được phản dấu hiệu được quy định trong luật hình sự vì trong nội ánh qua dung “được quy định” đã có nội dung về chủ thể.

Xem thêm: Mức hình phạt tại Khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015

Tội phạm tuy có chung các dấu hiệu như trình bày trên nhưng những hành vi phạm tội cụ thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau.

Tội phạm bao gồm từ những hành vi có tính chất đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến an ninh quốc gia như hành vi phản bội Tổ quốc (Điều 108 BLHS) đến những hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội không lớn như hành vi chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 176 BLHS). Những hành vi phạm tội cụ thế không những có sự khác nhau về nguyên nhân, về tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm hại mà còn có sự khác nhau ngay ở tính chất và mức độ nguy của hậu quả do hành vi phạm tội gây ra hoặc de doa gây ra cũng như ở nhiều tình tiết khách quan và chủ quan khác.

Thể hiện nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự, Bộ luật hình sự chia tội phạm thành 4 loại: Tội phạm ít ngiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

2. Tội phạm ít nghiêm trọng là gì?

Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật hình sự quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm.