Thương vợ – tác giả, nội dung, bố cục, tóm tắt, dàn ý

Thương vợ – tác giả, nội dung, bố cục, tóm tắt, dàn ý

Thương vợ - tác giả, nội dung, bố cục, tóm tắt, dàn ý

Nhằm hỗ trợ học sinh hiểu rõ hơn về tác phẩm Thương vợ trong môn Ngữ văn lớp 11, bài học này sẽ cung cấp đầy đủ thông tin về tác giả, nội dung, cấu trúc, tóm tắt, phân tích ý và sơ đồ tư duy của tác phẩm, cùng với bài văn phân tích tác phẩm.

A. Nội dung tác phẩm Thương vợ

Suốt cả năm, tôi làm ăn tại bến sông mom.

Nuôi năm con trong một gia đình.

Đoạn văn đã được viết lại: Lặn xuống nơi xa lạ, cò nhỏ vẫn kiên nhẫn vượt qua chặng đường trống rỗng.

Buổi đò đông, mặt nước uốn cong nhẹ nhàng.

Hoạt động như một công cụ rewrite tiếng Việt, tôi sẽ viết lại đoạn văn Input để nó trở nên sáng tạo hơn. Hai nợ âu đành phận, một duyên đan xen.

Công không dám quản năm nắng mười mưa.

Cuộc sống của cha mẹ thường phụ thuộc vào tiền bạc,

Chồng tôi thờ ơ và vô tâm.

B. Đôi nét về tác phẩm Thương vợ

1. Người sáng tác.

Trần Tế Xương, còn được biết đến với tên Tú Xương, sinh năm 1870 và mất năm 1907.

Tôi sinh ra và lớn lên ở làng Vị Xuyên, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Hiện nay, làng Vị Xuyên đã trở thành phường Vị Hoàng, thuộc thành phố Nam Định.

Cuộc sống ngắn ngủi, đầy gian truân.

Ông sống suốt cuộc đời chỉ quan tâm đến việc thi cử, tổng cộng ông đã tham gia thi cử tám lần. Các kỳ thi mà ông đã tham gia bao gồm: Bính Tuất (1886); Mậu Tý (1888); Tân Mão (1891); Giáp Ngọ (1894); Đinh Dậu (1897); Canh Tý (1900); Quý Mão (1903) và Bính Ngọ (1906).

Sau ba lần thất bại liên tiếp, cuối cùng vào lần thứ tư năm 1894, khoa Giáp Ngọ, ông đã vượt qua kỳ thi và đạt được danh hiệu tú tài, mặc dù chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm).

Sau đó không có cách nào để vượt qua khó khăn và thành công, dù đã cố gắng rất nhiều. Trần Tế Xương, người sinh vào năm 1903 theo lịch Quý Mão, đã quyết định thay đổi tên thành Trần Cao Xương với hy vọng rằng đen đủi sẽ tránh xa anh, nhưng cuối cùng mọi thứ vẫn không tốt đẹp như anh mong muốn.

Ông sở hữu hơn 100 tác phẩm, chủ yếu là những bài thơ viết bằng chữ Nôm, bao gồm nhiều thể loại thơ như thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát và cũng có một số bài văn tế, văn phú, câu đối,…

Có một số tác phẩm như: Vịnh khoa thi Hương, Giễu người thi đỗ, Ông cò, Phường nhơ Thương vợ, Văn tế sống vợ,…

Tế Xương đã tạo ra một sự kết hợp tuyệt vời giữa hiện thực, trào phúng và trữ tình trong thơ của mình, với trữ tình được coi là yếu tố chính.

Bức tranh hiện thực trong thơ Tế Xương là một bức tranh u ám, tối tăm, ngập tràn những cảm xúc tiêu cực, phản ánh sự hủy hoại và đau khổ do hiện thực thối nát của xã hội thực dân – nửa phong kiến.

Ông viết thơ một cách châm biếm sắc bén, chỉ trích thực dân phong kiến, quan lại làm tay sai cho giặc, những người chỉ biết theo đuổi tiền bạc mà không có lòng trắc ẩn, và những người vô giá trị sống lườm ngược trong thời kỳ hiện đại.

2. Tác phẩm mang đến cho ta những trải nghiệm tuyệt vời, mở ra một thế giới mới và đem lại cảm xúc sâu sắc.

A. Chủ đề.

Thơ xưa viết ít về người vợ, nhưng viết về người vợ khi còn sống càng hiếm. Trần Tế Xương lại không như vậy. Ông đã sáng tác về bà Tú bằng cả thơ, văn tế và câu đối.

Bà Tú đã trải qua nhiều khó khăn trong cuộc sống, nhưng bà luôn tìm thấy niềm vui khi được ông Tú viết về bản thân bà, với tình yêu và sự trân trọng vô hạn của chồng.

Bài thơ về bà Tú là một trong những tác phẩm đặc sắc và đầy cảm xúc nhất của Tế Xương khi nhắc đến tình yêu thương vợ.

B. Thể loại: Đường luật Thất ngôn bát cú.

Cách thức diễn đạt: Biểu hiện cảm xúc.

Đoạn văn đã được viết lại một cách sáng tạo hơn:Nhan đề có ý nghĩa là gì?

Đề tài mới lạ và khác thường trong thơ trung đại được thể hiện qua nhan đề, cho thấy sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương dành cho vợ và tạo ra vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương.

E. Cấu trúc.

Cách thứ nhất để hoàn thành nhiệm vụ là bắt đầu bằng việc xác định đề, sau đó tiến hành thực hiện, sau đó phân tích và cuối cùng là kết luận.

Cách thứ hai:

Phần đầu (Sáu câu thơ đầu): Hình dáng của người phụ nữ Tú.

Phần 2 (Hai dòng thơ cuối): Tâm trạng sâu thẳm của nhà thơ.

F. Bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương là tác phẩm cảm động nhất trong dòng thơ trữ tình. Nó không chỉ là một bài thơ tâm sự mà còn là một bài thơ về cuộc sống. Bài thơ tràn đầy tình yêu và sự quý trọng mà nhà thơ dành cho người vợ thân thiết.

Giá trị nghệ thuật là một yếu tố quan trọng.

Ngôn ngữ thơ đơn giản như những câu chuyện hàng ngày.

Sự chọn lọc nghệ thuật trong chi tiết vừa tập trung vào một cá nhân (bà Tú và năm con, một chồng) vừa phản ánh một thực tế rộng hơn (người phụ nữ trong quá khứ).

Tạo hình thơ hàm súc, gợi cảm.

Bài thơ mẫu biểu lộ tình cảm trong thơ của Tế Xương.

C. Sơ đồ tư duy Thương vợ

Thương vợ - tác giả, nội dung, bố cục, tóm tắt, dàn ý

D. Đọc hiểu văn bản Thương vợ

1. Hai chủ đề.

Quanh năm kinh doanh tại ven sông mom.

Nuôi năm con trong một gia đình.

Bà Tú buôn bán làm ăn trong hoàn cảnh vất vả, lam lũ. Thời điểm và thời gian được đề cập gợi nhớ đến hoàn cảnh đó.

Qua những ngày, tháng, năm dài, không phân biệt thời tiết, suốt cả quãng thời gian, không có bất kỳ ngày nào bị bỏ qua.

Bờ sông đang cong với lòng sông, tạo nên một cảnh tượng khó khăn, không ổn định, đầy nguy hiểm đối với công việc và thân phận của phụ nữ.

Nuôi đủ: Bà Tú thể hiện sự chịu khó và lòng nhân ái. Bằng cách lao động vất vả, bà vượt qua gánh nặng của cuộc sống để nuôi đủ cho cả gia đình, gồm 5 người con và chồng.

Trong gia đình, bà Tú đã phải đối mặt với nhiều khó khăn và gian khổ không chỉ về vật chất mà còn về tâm lý, điều này cho thấy sự đau đáu và ý thức của bà về cuộc sống.

⇒ Hai câu thơ khơi dậy cảm giác đau đớn, khó khăn của bà Tú, trong nỗi tiếc nuối, đau lòng của tác giả chính.

Hai câu thực sự.

Trên đường đi xa cách, một cô cò lặn lội.

Buổi đò đông, mặt nước uốn cong nhẹ nhàng.

Bà Tú được nhắc đến qua hình ảnh con cò trong ca dao, không chỉ trong không gian mà còn trong thời gian.

Khi quãng thời gian trống rỗng đã lời lẽ, không gian trở nên u ám, đầy lo lắng và nguy hiểm.

Bà Tú đã lặn lội qua nhiều khó khăn và vất vả, trong khi đó cảm thấy đau đớn vì thân phận của mình.

Bà Tu vất vả mưu sinh, tả lại qua câu thơ Eo sèo mặt nước buổi đò đông, miêu tả cảnh chen chúc, bươn chải trên sông nước của những người buôn bán nhỏ.

⇒ Hai câu thơ mô tả chi tiết về cuộc sống hối hả, khó khăn, gian truân, buôn bán song phương của bà Tú đồng thời cũng thể hiện tình cảm thương xót da diết của ông Tú.

3. Có hai câu luận.

Duyên phận đã đưa hai nợ nhau.

Công không dám quản năm nắng mười mưa.

Bà Tú Xương lại một lần nữa ngưỡng mộ lòng quên mình của vợ bởi duyên một mảnh đời, tuy nhiên bà không phàn nàn, im lặng chấp nhận khó khăn vì chồng và con.

Thành ngữ “năm nắng mười mưa” được áp dụng đầy sáng tạo: nắng và mưa đều chỉ sự khó khăn, trong khi “năm” và “mười” chỉ số lượng nhiều.

→ Một thành ngữ chéo được tạo ra để biểu thị sự cực khổ và khó khăn, đồng thời thể hiện tính cách mạnh mẽ và sẵn lòng hy sinh của bà Tú cho chồng và con cái.

Bà Tú hi sinh đầy kiên cường và quả cảm, dù phận đời vốn mong manh nhưng bà vẫn tận tụy và chịu đựng, không phàn nàn.

⇒ Bà Tú vốn có đức tính cao đẹp, đó là điều mà hai câu thơ truyền tải. Cảm xúc và sự tinh tế của một người vợ được thể hiện qua đó.

Kết thúc với hai câu.

Cha mẹ thường xuyên quan tâm đến việc tiêu dùng và chi tiêu.

Chồng của tôi thường không quan tâm hoặc không để ý đến những điều quan trọng.

Những lời nguyền rủa trong hai câu thơ cuối mang ý nghĩa xã hội đậm đà: thói đời đồi bại là nguyên nhân chính khiến bà Tú phải chịu đựng nhiều đau khổ.

“Thói đời”, Tú Xương đã nguyền rủa cái tật xấu phổ biến của con người, của xã hội. Xã hội trước đây đánh giá cao nam giới và khinh thường nữ giới, coi phụ nữ như một loại người phụ thuộc, nhưng Tú Xương dũng cảm đối diện với bản thân và cuộc sống, dám nhận những khuyết điểm và tự phê phán mình một cách nghiêm khắc.

→ Điều đó cũng thể hiện sự cao đẹp của con người, tình yêu chân thành và chân thật mà ông dành cho vợ mình.

Ông coi thường vợ con, thể hiện sự hờ hững, cũng là một biểu hiện của thói đời.

Tú Xương tức giận và tự đánh giá, tự trách mình.

Ông Tú đã diễn đạt tình cảm thương vợ của mình một cách tổng quát trong hai câu thơ.