3 Cách Vẽ Bùa Hộ Thân – Vẽ Bùa Và Những Nguyên Tắc Cần Chú Ý Khi Vẽ Bùa

1 ) Bùa giúp gia đình an vui .

Bạn đang xem: Cách vẽ bùa hộ thân

2) Bùa giúp vợ chồng hòa hợp .

)) Bùa giúp hợp ý khi giao tế, tiế xúc , xả giao .

4) Bùa may mắn.

5 và 6) Bùa giúp an thai và bùa ngăn chặn con ranh

con lộn ( Phạm thái thần ) .

7) Bùa hộ thân, trừ tà giải bệnh.

8) Bùa hộ thân khi gặp kiện tụng.

9) Bùa giúp phát đạt về thương mãi , buôn bán .

1 0) Bùa trị khỏi chứng con tre khóc đêm.

1 1 ) Bùa trừ ác mộng

12) Bùa trị bệnh nhức đầu, hồi hộp lo lắng , ăn ngủ

không yên .

Trong thiên khảo cứuvề Bùa chú đăng ở báo Đại Chúng từ các số 223 trở đi cũng có đăngmột số bùa lưu truyền cho hậu thế của các Đạo sĩ chuyên trị bệnh , như: (A) Bùa trị bệnh suyển. (B) Bùa giải trừ nghiện thuốc hút.(C.) Bùagiúp trẻ con dứt sữa nhanh. (D) Bùa trị chứng đau thận, đau lưng. (E)Bùa trị mắc xương.

Ngoài ra còn nhữngloại bùa để hộ thân khi đi đường trừ ma quái, trộm cướp chận đường (làhay bùa bảo vệ nhà cửa( G ).

Về cách trị liệu , tư liệucho biết sơ lược như sau; mỗi loại bùa có cách sử dụng riêng biệt ,nếu thực hiện không đúng cách sẽ không đem lại kết quả và muốn tốtphải do người có chân tâm thực hiện. Ví dụ: Con trẻ khóc đêm hoài khódứt thì dùng Bùa giải gọi là bùa khóc dạ đề. Bùa này phải viết trêngiấy màu vàng bỏ vào trong gối kê đầu của trẻ. Khi viết phải tập trungtư tưởng cố gắng nín thở và tâm niệm với năng lực tâm thần liên kếtvới sức mạnh siêu linh để tạo một huyền lực vào trong đạo bùa. Trườnghợp người có thai muốn được an thai , cần có đạo bùa an thai đeo vàongười ( xếp bỏ trong cái túi vải màu vàng đeo vào cổ hay để trong túiáo ).

Trường hợp dùng bùa giải trừnghiện thuốc hút: trước tiên phải tập trung tư tưởng và nghĩ đến sựtai hại của hút thuốc về các lãnh vực trong cuộc sống và cả bản thânmình. Tiếp đến vừa tập trung tư tưởng vừa vẽ lên giấy vàng đạo bùa chủtrị nghiện thuốc hút. Nhớ cần phải nín thở để họa cho xong đạo bùa (trước đó nên tập cho thuộc nét cho rồi hãy thực hành). Người xưa theophương cách là viết bùa xong đốt thành tro hòa với một chút Hoàng LiênSơn sắc ra nước để uống. Tự nhiên sẽ cảm thấy không còn thích hút thuốcnữa. Ngày nay y, vì sợ khi hòa tro với nước sắc ấy uống vào đôi khicó thể hại về mặt hóa chất nào đó chưa phối kiểm được ; nên về sau cóngười dùng một ly nước lọc đặt trên bàn rồi sau khi vẽ bùa xong lại tậptrung tư tưởng, đốt lá bùa rồi huơ đi quơ qua quơ lại lại trên lynước cho đến khi bùa cháy hết. Khi đó uống hết ly nước lọc với tâm niệmrằng từ nay mình không còn hút thuốc nữa.

Theo các nhà nghiên cứuâu Châu sau khi quan sát tận mắt cách chữa trị này của một số đạo sĩ ởHồng Kông áp dụng từ Bùa Chúc Do ( đã giúp giải được bệnh ghiền thuốchút cho một người cai thuốc ở Cửa Long) thì kết quả đạt được phần lớnlà do bệnh ghiền thuốc không phải là bệnh của thể xác mà là bệnh tâmlý. Tuy nhiên về sau khi theo dõi những phương cách trị bệnh khác theoBùa Chú thì các nhà khoa học này mới thật sự kinh ngạc và họ đang thànhlập một hội đoàn các khoa học gia nghiên cứu về năng lực của Bùa Chú.

Cũng tại thành phố CủaLong ( Hồng Kông ) các nhà khoa học và nhà báo đã có lần chứng kiếnphương thức chữa trị mắc xương bằng Bùa Chú rất hiệu nghiệm như sau:

Hôm đó là ngày 19 tháng 6năm 1956, một nhân vật cao cấp trong chính quyền Hồng Kông bị mắt phảicái xương gà. Cái xương nhọn rất nguy hiểm. Các bác sĩ cho biết cầnphải mổ ở cổ họng và vì cái xương nằm ở vị trí sát thanh quản, nếu mổsẽ ảnh hưởng lớn đến giọng nói hoặc có thể làm tắt tiếng , may thaylúc đó có một Đạo sĩ có học thuật về bùa chú Chúc Do và Trương Thiên Sưđã bảo đảm lấy xương ra khỏi cổ họng cho nạn nhân mà không cần phải mổ.Trước mắt các nhà khoa học và báo giới vị Đạo Sĩ này chỉ cần lấy cái tôđổ đầy nước lã vào rồi vừa niệm chú vừa lấy ngón tay vẽ lên trên mặttô nước một đạo bùa. Kế đến vị Đạo sĩ yêu cầu nạn nhân quay mặt vềhướng mặt trời mọc cố gắng tập trung tư tưởng và nghĩ đến cái xươngđang mắc trong cổ họng sẽ phải rơi ra , xong hít khí trời vào ba lần.Sau động tác này, vị Đạo sĩ trao tô nước cho nạn nhân bảo cố súc miệngnhả ra. Lạ lùng thay, tự nhiên cái xương rơi ra theo.Trong tài liệuđăng trên báo Đại Chúng thì phương pháp chữa trị có hơi khác, có lẽ tùytheo từng loại xương to, nhỏ. Theo phương thức này thì ( có lẽ áp dụngcho loại xương nhỏ ít nguy hiểm ) : Khi một người bị mắt xương, dù làxương cá hay xương gà hay bất cứ xương thú gì. Bạn hãy lấy một chénnước lã, hoặc trà cũng được dùng ngón tay vẽ kiểu Bùa trên đây ( vẽcho thật đúng ) trên mặt nước đồng thời miệng mềm câu thần chú sau đây:

Chén nước này hóa ra biển lớn phíaĐông. Cổ họng hóa ra đầm sâu vạn trượng, chín con rồng quay về động.Ngã phụng Thái Thượng Lảo Quân, cấp cấp như luật lịnh. Xong bạn bảongười bị mắt xương , quay mặt về hướng Đông, hít khí trời vào họng bacái, rồi uống chén nước.

Phương pháp trên đây đãthực nghiệm rất nhiều lần, đều hiệu nghiệm. Chén nước chưa uống cạnxương nơi cổ họng đã tan.

Loại bùa bảo vệ, giữgìn nhà cửa được yên ngăn chận không bị hỏa hoạn, bảo lụt, trộmcướp…Gọi là bùa. Bùa này phải được chính các Đạo sĩ có năng lực vềhọa kèm với lời chú , dán trên đầu cột cái của căn nhà).

Có nhiều bùa giải trừtai nạn bệnh tật gồm nhiều bùa khác nhau như Bùa trừ ác mộng của Đạo sĩTrương Thiên Sư Bùa này vẽ thành 12 lá dán trên đầu nằm theo các ngàyTý, ngày Sữu, ngày Dần, ngày Mão v…v…

Riêng về Bùa trên, may mắncho giao dịch buôn bán thì dùng một miếng giấy vàng vẽ Bùa số 9 ( Xemhình ) vào túi vải màu vàng, may lại đeo vào người hay để vào túi áotrên. Dĩ nhiên muốn có kết quả phải được một pháp sư Đạo sĩ có thục lựcvẽ bùa kèm chú mới tốt.

Có nhiều loại bùa sau khi họa xongcòn phải được đốt dùng tro pha với nhiều chất đặc biệt để uống , nhữngphương thuật này phải do chính các Đạo sĩ thực hiện, người thườngkhông hiểu rõ chi tiết pha chế không đúng cân lượng cũng như dùng khácchất sẽ vô cùng nguy hại. Nói tóm lại, các loại bùa muốn linh nghiệmphải do các bậc cao minh đứng ra họa bùa đọc chú. do đó người thường không lạ gì khi thấy nhiều sách viết về bùa chú và in cả các hình ảnhbùa chú đôi khi cả phương thức thực hiện mà người xem mua về làm theolại không thấy có kết quả , đôi khi còn tai hại và nguy hiểm.

Nhà nghiên cứu về các phápthuật siêu hình là Ngộ Thường Tử đã viết trong báo Khoa Học Siêu lệnhxuất bản tại Hoa Kỳ năm 1990 đề tài thuộc lãnh vực này gọi làMan-đa-ra. Theo tác giả Ngộ Thượng Tả thì Man- Đa-ra tốt là lệnh Phù.Đó là những pháp thuật để bảo vệ chánh pháp, ngăn ngừa ác quỷ. Người tutheo đạo Man- Đa-ra giáo ( Mật giáo, Chôn ngôn tông ) gom vào đó sứclinh của Phận Thánh, Tiên, Thần để trừ tà ma, ác quỷ, bảo hộ sinh mệnh,nhà cửa, đình chùa lăng miếu. Đây là một pháp môn tối cổ và đặc biệtcủa người Tây Tạng.

Pháp môn này gồm có:

Linh phù ( Man-đa-ra ), Thần chú Dharani và Pháp ấn ( Mudrâ ).

1 ) Linh phù là lá bùa tính được họa trên giấy hay trong hư không có công dụng chữa bệnh, trừ tà ma…

2) Thần chú là những ngôn từ bí mậtcó thể đọc thành tiếng hay đọc thầm trong miệng, hoặc chỉ nghĩ đếntrong tâm ( gọi là Mật thanh thần chú hay Mật tâm thần chú ).

Công dụng của Mật thanh thần chú là để biết rõ về tiền kiếp của người khác hay của chính mình.

3) Pháp ấn, theo Ngộ Thường Tử thì Pháp ấn ( Mudrâ)

là biểu tượng, phù hiệu giống cácthủ lệnh của quân đội ( thường biểu lộ qua tay, ngón tay… ). Có nhiềucách bắt ấn tuỳ theo công dụng ví dụ bắt ấn trừ tà ma yêu quái gọi làPhục ma ấn, truyền đạt năng lực, tư duy, giác ngộ qua tâm não gọi làTâm ấn…

Nhà nghiên cứa về sự vi diệu kỳ bícủa Man-đa-la là Meita Copony đã cho rằng , chỉ cần nhìn sơ cấu trúccủa một biểu tượng về Man-đa-la cũng thấy sự huyền diệu lạ lùng. Thứnhất là vùng trung tâm nơi phát nguồn những tia sáng hào quang rồi đếnvùng chu vi, ngoại biên của vòng tròn là những dạng thể và ánh sángcùng màu sắc của những gì có tính cách huyền bí thuộc năng lực siêulinh, nơi phát sinh ra tất cả mọi sự sống, mọi vật chất tồn tại trongkhông gian và thời gian…Nguồn sáng lung linh tuôn tràn từ trung tâmđiểm của Man-đa-la xoay vòng chuyển hóa từ trong ra ngoài, tỏa ra muônvạn hướng rồi lại chuyển động quay trở về chốn tận cùng thâm sâu củatrung tâm điểm của Man-đa-la. Trung tâm điểm ấy được xem như là điểmkhởi đầu và chấm dứt. Man- Đa-la được xem như là cái bánh xe mặt trời.Man-đa-la có mặt khắp nơi trong vũ trụ .

Hai nhà nghiên cứu nổitiếng về Man-đa-la là José và Miriam Arguelles, trong những tác phẩmviết về đề tài này đã ghi nhận rằng:” trong vũ trụ đều có dạng thể củaMan-đa-la. Từ những có thể của bào tử, loài phiêu sinh ( Plankton ) đếncả bông hoa còn nụ hay xoè nở … Chính con mắt người và thú cũnglà hình ảnh của Man-Đa-la…

Trong cuốn Mandala củaJosé và Mirian Arguelles xuất bản năm 1972 tại Hoa kỳ ( ShambhalaPublication, inc-72 1 ) có trình bày một sơ đồ rất kỳ diệu sơ đồ quy tụmọi biểu tượng của các lý thuyết Tôn giáo, Tâm linh siêu hình gọichung là Man-đa-la của nhịp chu kỳ (tuần hoàn) sinh hóa .

Bùa Thái Công :

Gọi là bùa THáI CÔNG vì loạibùa này có ghi chú rõ ràng tên của một nhân vật có khả năng trị yêuquái. Nhân vật ấy chính là Khuông Tử Nha hay còn gọi là Khuông TháiCông xuất hiện vào thời nhà Châu ( Trung Hoa ) . Khuông Thái Côngthường có một bửu bối đặc biệt gọi là Roi Đả Thần. Roi này mỗi lầnđượcc Thái Công vung ra là Thần tiên đều sợ và bị khuất phục. Do đó,bọn ma quỷ yêu quái khiếp sợ roi đả thần vô cùng. Chính vì lẽ đó mà vàongày đầu năm ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam thường có tục lệ dán bùatrấn yểm ma quỷ trước cửa nhà bằng bùa Thái Công.

Bùa Thái Công có được vẽ trênmột tờ giấy vẽ 5 vạch ngang 4 vạch dọc. Phía dưới đề chữ Khương TháiCông tại thử ( có nghĩa là Khuông Thái Công hiện ở đây ).

Người Việt Nam ngày xuagọi bùa này bằng danh từ rất bình dân là Bùa Tứ Tung Ngũ Hoành ( ngangdọc ) Bùa này cũng còn thấy xuất hiện ở ngọn cây nêu vào dịp Tết. Bùanày không vẽ mà đan bằng tre. Tre được lướt, vót thành những dải dẹpđan ngang và dọc , chừa những phần cuối xòe ra.

Treo lá Ngải trừ ma quái :

ILá ngải cứu là một loại lá có nhiềucông dụng về dược tính như làm dịu không khí nóng bức ,lọc sạch khôngkhi giúp sự hô hấp được thuận lợi.

Vào ngày Tết Đoàn Ngọ tứclà ngày mồng 5 tháng 5 , người Việt Nam thường có tục lệ treo chùm láNgải ở trước nhà để trừ tà, ma quỷ, đuổi bênh tật.

Bùa trừ ma quỷ của trẻ con :

Bùa nầy trong dân gian còn gọi là bùa Ngủ sắc. Trẻ con khi đeo bùa này vào cổ, trước ngực sẽ

có được nhiều lợi điểm là không khócđêm, ngủ không giật mình, không sợ sệt, không bị ma quỷ quấy phá. Ngoàira Bùa Ngủ sắc còn khiến các loài rắn, rết, nhện độc tránh xa. Bùa Ngũsắc gồm các thứ như sau:

– Các hạt Mùi : Có mùi rấtthơm , kỵ gió nắng hay trở trời , được cho vào một cái túi vải màuvàng hình vuông may lại bằng chỉ ngủ sắc. Khi may, để chừa lại ở cácgóc những tua chỉ màu ( để ở ba góc còn góc thứ tư thì buộc chỉ để đeochung với những thứ khác )

– Các thứ Quả: hồng, na, ớt và khế.Đặc biệt ớt phải chọn ớt có lẫn màu xanh, đỏ, vàng. Riêng khế thì chọnmỗi khía có những đốm màu khác nhau càng nhiều càng tốt.

– Hồng Hoàng : Tất cả cho vàonhững túi nhỏ bằng chỉ ngũ sắc đeo thành một chùm trước ngực đứa bé.Các thứ quả thường để cho khô, teo lại để không còn bị lên mốc, hư thối.

Ngày nay, tại Việt Nam khôngriêng gì các vùng thôn quê mà ngay cả ở thành thị cũng vẫn còn tục lệtrẻ con đeo bùa ngũ sắc để trừ tà.

TRÙ YỂM – THƯ YẾM – BỎ NGẢI – BỎ BÙA

Trù yểm hay trù ếm là loạima thuật của những thầy Pháp, phù thủy, đạo sĩ dùng để làm kẻ khácphải đau ốm, gặp điều nguy hiếm, không may. Thư ếm hay bó ngái cũngvậy.

Nhiều người cứ tưởng rằngchỉ ở Trung Hoa, Việt Nam và nhất là ở vùng Sơn Cước, Mạn ngược làthường xảy ra hiện tượng thư ếm, bỏ bùa, ngải. Nhưng thật sự nhiều nơitrên thế giới đã có từ lâu sự kiện này. Ở Philippine ( Phi Luật Tân )Indonesia ( Nam Dương quần đảo , Mã lai á, Miến Điện, Lào, Cam bốt…và xa hơn nữa là Phi Châu, Úc Đại Lợi) .Theo nhà nghiên cứa Derek vàJuha Parker chuyên về Huyền Thuật và Ma Thuật thì vùng Nam Phi nhất làở Dahomey, Be nin và Tây Nam Cameroon thường có nhiều phù thủy chuyêntrù yểm thư yếm người. ở Su dan, Zavre, Brazil, ở Haiti và ngay cả ÂuChâu xưa cổ nhất là vùng Bắc âu cũng có những trò ma thuật ghê gớm này.

Tác giả Toan ánh đã viết vềvấn đề trù ếm như sau: ” Có nhiều người thù ghét nhau, không thể đườnghoàng làm gì nhau được nên thường nhờ các thầy Ngải, thầy Pháp, thầy Tựtrù ếm kẻ thù. Có khi bỏ bùa làm hại, có khi dùng ngải để trù ẻo khiếncho người bị bỏ bùa, bị trù ẻo sinh đau ốm, bệnh tật. Trong nhữngtrường hợp này, gia đình người bệnh phải tìm các thầy Ngải, thầy Phápcao tay để hủy bỏ bùa và phá ngải mới khỏi được bệnh.

Cũng có khi cầu Thần Thánh chỉ nơi bỏ bùa, lấy bùa đi hoặc xin Thần Thánh ra tay trừ Ngải.

Có nhiều người bị thư, nghĩa là bịngười thuê các đồng bào Mường hoặc Thượng để thư vật gì vào thân thể.Phải tìm cho được người thư ấy, để họ kẻo thư về thì mới khỏi bệnhđược. Có người bị thư quả trứng, miếng mảnh sành, bó giẻ… vào trongbụng không sao lấy ra được. Theo những lời thuật lại thì dù người bịthư có được bác sĩ giải phẫu lấy vật thư ra, rồi sau đó vật thư cũngvẩn trở lại vào trong người nếu người thư chưa kéo thư về ” ( ToanÁnh – Phong tục Việt Nam, Trang 473 và 474 – Sài Gòn 1969)

Vẽ bùa yểm chú còn thấy trong những đám ma.

Lúc đám tang chuyển từ nhà ra đườngngười xưa tin rằng ma quỷ sẽ lợi dụng lúc có người chết, cảnh trí đámtang nhuốm vẻ thê lương, u ám sẽ dễ bề len lõi, nhập vào quấy phá. Vìthế để có thể dọa nạt, cảnh cáo ma quỷ, người ta dùng tre đan hình nhânvà phất giấy màu vẻ mặt dữ tợn để tạo những thần tướng oai phong taycầm gươm giáo ngực có dán bùa xua đuổi ma quỷ. Thường người ta đan haihình nhân bằng tre dán giấy cho hai người nắm đi đầu đám tang. Hai biểutượng ấy được gọi là phương tướng. Để linh hoạt hơn, nhiều nơi thay haihình nhân bằng hai người thật được vẻ mặt dữ tợn hay đeo mặt nạ có răngnanh, mắt trợn, áo quần ngũ sắc có đeo bùa trừ, yểm xua đuổi ma quáiyêu tinh. Hai người này sẽ dẫn đầu đám ma vừa đi vừa múa gươm giáo.

Xem thêm: Cơ Sở Vật Lý David Halliday Pdf, Thư Viện Vật Lý

Có khi hai Phương Tường bằng ngườithật này lại được tăng cường thành 4 hay 5 người. Lúc bấy giờ đám ma sẽđược xem như bảo vệ và dẫn đạo bởi các vị Thần, Tướng. Có tất cả 4 vịtướng và một vị thần. Những người này phải lo ăn mặc áo quần đầy màusắc có dán bùa phép, phải biết múa gươm giáo và hát hay đọc chú để trừyêu đuổi quỷ cùng loài ma quái muốn xâm nhập đám ma lúc đi đường.

Ngày xưa người ta thườngthuê những người trong nhóm phường hát, các đoàn hát bội để làm cácThần Tướng vì cách thức nhập vai của họ rất đúng điệu.

Những người này khiđóng vai Thiên Tướng, Thần Hổ đều múa đao, kiếm, nhảy múa, đọc chútrong suốt thời gian đám ma đi trên đường tới mộ huyệt. Lúc đám ma tớimộ huyệt, bốn Thiên Tướng và Thần Hổ bắt đầu đi quanh huyệt vừa múagươm giáo vừa hát và đọc chú, vẽ bùa để trấn yểm ma quỷ, đuổi chúng rakhỏi huyệt đang để trống ( vì có nhiều ma quỷ ẩn núp sẳn dưới huyệtchờ khi hạ huyệt con cháu kêu khóc về người chết, chúng sẽ vào quan tàiđể nhập vào xác người chết).

Trong cuốn Phong Tục ViệtNam, ở phần Tang Ma và ở đoạn mô tả về Nghi Trượng đi đường của đám ma(trang 52 1 – 1 969) , soạn giả Toan ánh đã trình bày rất chi tiết vềvấn đề này và cũng đã viết về các Thiên Tướng và Thần Hổ, những ngườiđóng vai trị huyệt, xua đuổi ma quỷ như sau:

Sau khi vẽ bùa yểm chú khắp nơihuyệt và chung quanh, năm người đóng vai trị huyệt này đều vội vã bỏ ravề, mỗi người đi một đường mà không ai trở lại con đường lúc đã đi. Tụctin rằng những tà ma, trùng quỷ bị xua đuổi ớ dọc đường cũng như ở ngôihuyệt, căm giận mấy vai phương tuồng, chúng sẽ họp nhau lại đón đườngđể trả thù .

Những vai phường tuồng này,khi về đến nhà cũng phải vội vàng cởi bỏ quần áo, rửa mặt cho hết nétvẻ để trở lại người thường ngay, tránh sự báo thù của ma quỷ.

Sự kiện vừa trình bày trênthật giả thế nào, quả thật chưa ai biết được và cho đến nay cũng chưaai giải thích được rõ ràng. Tuy nhiên đã có nhiều lần xảy ra tai họa lạlùng cho những người đóng vai Thiên Từng, Thần Hổ hoặc Phương Tướng.Anh Lê Văn Thành trú tại An Cựu-Huế năm 1949, đã từng sống bằng nghềgiả làm Phương Tướng dẫn đầu đám ma doạ nạt ma quỷ. Một hôm đang trênđường về nhà, trời sẩm tối. Khi đi ngang qua một cây đa to lớn sum sêbên đường anh bỗng nghe một tiếng động, rồi từ trên cây đa rơi xuốngmột cái tổ kiến to bằng đầu người. Anh giật mình dừng lại nhìn kỷ thìcái tổ kiến ấy chuyển động và anh thấy như một cái đầu người có haimắt và cái miệng sân hoáy đen ngòm đang nhìn anh.

Tự nhiên trong người anh nổi gai ốc,anh vội vã bước nhanh về nhà và từ đó anh cảm thấy ớn lạnh trong ngườikhông ăn uống gì được. Thế rồi , liên tiếp mấy đêm liền, vào khoảnggiữa khuya anh đều mơ thấy những hình ảnh kỳ dị và những tiếng nói cứlập đi lập lại bên tai anh:

– Mày phải bỏ ngay cái nghề mày đanglàm đi, nếu mày dọa nạt, vẽ bùa, đọc chú xua đuổi chúng ta thì mày cũngsẽ bị chúng ta làm cho dở sống dở chết…

Anh Thành đã thuật lại sự việt cho Thượng Tọa T.N.H. nghe và lúc đó Thượng Tọa đã góp ý như sau:

– Mọi sự tại tâm ? nếu tư tưởng conđã có những hình ảnh, ý nghĩ phát sinh từ những sự việc con làm thìcách hay nhất là con hãy từ bỏ cái nhân đi là xong. Cái nhân ấy là việclàm của con trước đó.

Anh Thành nghe Thượng TọaT.N.H. chỉ dạy, đã không còn nhận làm Phương Tướng nữa và sau đó anh đãhết bệnh. Về sau . khi kể lại chuyện xưa ngày cũ và nhắc lại câuchuyện anh làm Phương Tướng ngày nào, anh Thành vẩn còn sợ

và cho biết thêm như sau: Lúc đó tôicó một ông chú ở trong Thành Nội gần cửa Thượng Tứ cũng thường đi làmPhương Tượng nhưng ông không bị ma quỷ hù họa như tôi. Khi thấy tôi sasút xanh xao và nghe tôi kể lại câu chuyện gặp ma quỷ ám, ông thở dàinói : chú đã dặn cháu là đừng mặc đồ Phương Tướng về nhà sau khi xongviệc theo đám táng nhất là về nhà nên đi đường tắt, đổi quần áo khác vàđội nón che

mặt, nhưng cháu cứ ỷ mình là thanh niên chẳng ngán ai, kể cả ma quỷ’, nên mới bị nó nhát đó .

Vì sao Bùa Chú trở thành bí truyền?

Theo các sách về ” Mật pháp” của Tàu thì Bùa Chú chỉ truyền cho những người có Đức, và người đượctruyền phải làm lễ tuyên thệ với Tôn Sư, với Thần Thánh. Không phải bấtcứ ai cũng học được.

Vì sao? Vì người hiểu biết và sửdụng được Bùa Chú sẽ gây tai hại cho kẻ khác, nếu y có lòng ích kỷ thamlam, vì người biết bùa chú huyền thuật sẽ là ” ngoại càn khôn “đối với xã hội nếu y có tà tâm.

Ngoài việc lập đàn làm lễtuyên thệ ra , người đệ tử được Tôn Sư truyền cho Bùa Chú còn phải thệnguyện giữ đúng mười điều giới răng rất nghiêm nhặt. Chính vì mười điềugiới răn này mà bực tầm thường thiếu Đạo Đức không sao theo nổi. Nhữngđiều kiện khe khắt ràng buộc người học Mật Pháp giống như một cuộc thiĐạo Đức rất gay go, thành thử không có mấy người theo học nó cho đếnnơi đến chốn , mà chỉ học được một vài món tầm thường mà thôi .

Nhân xấu sẽ sinh Quả xấu.bởi thế, các vị đạo sư, pháp sư đứng đắn, hiểu rõ đạo lý nhân quả,không bao giờ dám dùng bừa chú để hại người. Trái tại họ dùng sự hiểubiết về siêu hình học của họ để giúp đo người khác.

Rốt cuộc, Bùa Chú hay lời cầu nguyện, tất cả đều do tâm con người mà có. Cho nên nói rằng Vạn pháp Duy Tâm tạo là phải.

Chính cái Tâm của bạn mớilà Đệ nhất linh thiêng. Bạn chứa sẵn Tâm lành, bạn lại nghĩ việc lành.Nachẳng may bạn gặp việc rắc rối, bạn có ý muốn được giải nguy thoátkhổ vì việc rắc rối đó. Bạn thành tâm cầu nguyện hoặc cầu sức Mẹ Maria, hoặc cầu Đức Quán Thế Âm, hoặc có thể vẽ Bùa .. Bạn sẽ thấy rằng ýbạn sẽ được kết quả… Bởi lẽ tâm lành của bạn là Nhân, còn Bùa Chúcũng như lời cầu nguyện là duyên. Nhân Duyên đó gặp lòng từ bi của cácbậc siêu hình tự nhiên cảm ứng phát sinh kết quả.

Các nhà Đạo học đã nói:

– Nhất t Phù, Nhì Chú, Tâm Thần lực.

( Một là Bùa, hai là Chú, ba là Thần lực – Bởi Bùa,

Chú là do sức Tin mà có và Đức tin ấy lại đặt vào Thần lực của các bậc Siêu Hình. Ba cái đó hợp tất nhiên sẽ có sự kỳ diệu!

Khi giải thích về ‘lsức mạnh do Tâm tạo ra, nhà nghiên cứa Bùa Chú ấn còn cho biết:

– Tâm có thể biến thành sức mạnh.

– Tâm lý tập trung vào những nét của cá Bùa.

– Ngón tay tuỳ theo Tâm mà vẽ nên những nét bùa trên giấy, trên chén nước.Sẽ phát ra một thứ Điện từ lực.

Miệng niệm chú khi trí óctập trung tư tưởng, ý chí. Khi niệm chú, âm thanh cũng tạo ra Điện từlực .Sức mạnh của Tâm, của tư tưởng, của Điện từ kết hợp lại thành mộtkhối sức mạnh đặc biệt do Thân ( bàn tay) Khẩu ( âm thanh ) và ý ( Tâm,tư tưởng ) tập trung và phát ra. Từ nét vẽ của Bùa tới lời lẽ, âm thanhcủa câu chú đều nhằm tạo sức mạnh phối hợp của Thân, Khẩu, Ý . Thầnlực tức là Điện. Nói cách khác nó là Tâm Lực.

Bởi vì tất cả đều do Tâm mà ra. Tâmchuyển được vật là bởi Tâm phát ra Điện từ lực. Tâm, vật đồng một thểhay Nhất thiết duy tâm tạo chính là ý ấy.

Đã biết rằng Tâm có thể chuyển đượcVật thì cũng biết rằng Vật có thể chuyển được Tâm. Những bùa yêu, bùathương, bùa tạo giấc mộng đẹp… Đều phát sinh bởi lý đó.

Những chữ Bùa, những câuChú, những phép luyện, những bí thuật v…v… đều là sự diệu dụng củaChân Tâm. Mà Chân Tâm thì bao trùm khắp Thần, Thánh, Tiên, Phật, chođến ma quỷ, chúng sánh, địa ngục, Thiên Đường, tất cả đều ở trong Chântâm.Hể lòng ngay, chánh thì mọi sự đều ngay chánh, hễ lòng tà vạy thìmọi sự đều tà vạy . Hễ tâm bị tán loạn thì yếu ớt, không tác động đượcgì . Nhà Đạo học nhờ thấu rõ muôn vật đều là giả ảnh, từ chỗ không màcó cho nên Tâm không bị Vật hạn chế. Hễ tâm không bị vật hạn chế, ràngbuộc thì Tâm hoàn toàn làm chủ Vật, diệu dụng vô cùng…”

Thần Chú và Cầu Nguyện

” Thần chú khác với cầu nguyện. Cầu nguyện là hạ mình yêu cầu kẻ khác kể cả thần linh.

Còn đọc thần chú là ralệnh cho những lực lượng vô hình. Chính vì cái Tâm mình ngay chánh tựtin ở đạo đức ức của mình có thể làm cho quỷ thần kinh khiếp cho nênnhà Đạo Đức chế ra những câu chú có tính cách truyền lệnh. Ví dụ câuchú sau đây giúp sáng tai, nghe cảm được mọi sự họa phước sắp xảy đến.Câu chú này gọi là ” Minh nhỉ chú “:

– Thiên Chi Thần quang, địa chi thầnquang, Nhật nguyệt thần quang, nhỉ biên quang, chú chi nhỉ văn, chúvăn nhỉ khai quang, thần thông nhập nhỉ, tốc chi nhỉ bàng, cấp cấp nhưCửu thiên Huyền nữ luật lịnh… nhiếp.

Đọc Thần chú là Tâm phátra tiếng động tạo thành những điện ba ( sóng điện ). Hễ sóng điện mạnhthì cảm ứng những đường thẳng và đường cong phối hợp với nhau . Đườngthẳng hợp thành góc cạnh biến ra những hình tam giác, tứ giác, lụclăng… hình tròn, hình thuần, hình cong, hình nón… và vũ trụ chỉ lànhững đường thẳng, đường cong phối hợp, biến hóa thành ra muôn hình vạntrạng (kỷ hà học). Điều này thấy rõ khi quan sát những hình ngôi sao,lục giác, những hình kỷ hà biểu tượng trong các tôn giáo hay từ nhữngphương thuật vẽ bùa của người Ấn, người da đỏ, người Phi Châu, ngườiTrung Hoa, người Âu Châu v…v… “

Về sức mạnh của hình vẽ (Bùa ) thì có hai loại bùa (phù). Một là những dấu hiệu gồm chứa cả mộtnguyên lý hợp với sự vận hành của Tạo hóa. Người Tây phương gọi làPantacle. Như Thập tự giá của Thiên Chúa Giáo, cho chử Vạn của PhậtGiáo, hình ngũ giác đen trắng của vua Salomon… Mỗi hình vẽ tuy cókhác nhau nhưng cùng theo đúng một nguyên lý cả.

Thập tự giá tượng trưng cái Tâm hướng về Thượng Đế tức là chân lý, là sức mạnh tạo nên sự sống.

Chữ Vạn là chữ Thập bẻ gãyhai đầu nếu nhìn chung sẽ trông giống như Bánh xe Pháp luân lăn tròn từbên phải mà đi , ấy là Thiện thắng ác, Trí Huệ tháng Si Mê, làm thànhmuôn Đức vạn Hạnh và tất cả muôn Đức vạn Hạnh ấy từ một Tâm mà tỏa ra.

Hình ngũ giác của vua Salomonlà hai hình tam giác, một trắng một đen chéo nhau. Trắng là Đức trí,đen là Si mê tà ác, trắng đi lên, đen đi xuống. Đi lên là ánh sáng làhướng về Thượng Đế toàn thiện toàn năng. Đi xuống là địa ngục, tối tăm.Khi hình ngủ giác ấy vận chuyển, lăn đi thì bất cứ phía nào cũng đều cómột góc chỉ lên trên và hai góc còn lại làm chân đứng. Đó là Thượng Đếlà Bản thể vũ trụ vạn vật.

Người Do Thái và những nhàSiêu hình học Tây Phương đã lấy hình ngũ giác của vua Salomon ( Penta-gramme de Salomon ) để làm bùa chiêu phúc, tin rằng nó sẽ tạo ra ảnhhương phúc đức tốt lành.”

Về bí quyết họa Bùa, nhà nghiên cứu này còn cho biết :

Bí quyết của Thần chú làphải tĩnh tâm. Họa phù là Tâm vẽ ra hình, nét, tạo thành điện cảm. Chonên bí quyết của sự họa phù là phải vẽ luôn một mạch, dồn ý chí vào nétvẽ, có thế mới phát sánh điện cảm ứng. Lúc họa phù phải nín thở, tậptrung tất cả tâm ý vào ngọn bút để vẽ chính là ý nghĩa ấy.Tay vừa họaphù, miệng vừa niệm chú hèn theo nét vẽ, ấy là tập trung cả sức điệncủa tâm do tay và miệng phát ra.

Ngoài ra phải tuân theo mười điềugiới răn khi họa phù: Bùa chú có đủ loại. Bạn có thể sưu tầm được nhưngbạn sẽ không thể nào áp dụng được, nếu bạn không biết phương pháp.

Nhất là mười điều giới răn:

– Khi Họa Phù, phải loại trừ tất cả vọng tưởng vọng

niệm trong tâm.

– Phải dẹp bỏ tất cả tà ý ( ý nghĩ quấy)

– Phải thành tâm thành ý

– Phải tập trung tâm ý vào mỗi việc sở cầu ( điều mong muốn này phải chính đáng)

Miệng phải sạch sẽ, tức là phải súc rửa cho tinh khiết .

– Tay phải sạch sẽ, nếu xông hương khử được càng

Tốt .

– Bút mực phải mới tinh.

Phương hướng ngồi phải đúng ( có khi phải hướng

Nam có khi phải hướng Đông .

– Không được nóng nảy hấp tấp.

– Không được vẽ đi vẽ lại một nét.

– Miệng niệm Chú phải đồng nhịp với tay họa phù.

(Một hơi từ lúc phóng bút cho đến khi dứt chữ thì xong).

– Không được khạc nhổ, ho hen.

– Không được sửa đi sửa lại.

Giữ đúng những điều trên, chẳng những mười điều

giới mà thôi, tất cả đến mười ba giới.

Suy xét kỹ, chúng ta thấy gì? Mười ba điều giới đó.

đều có ý nghĩa lại tập trung tâm ý tư tưở và ” thanh

tịnh thân khẩu “.

Khi cả ba món THÂN, KHẨUvà Ý được hoàn toàn trong sạch thì ĐỊNH vực phát hiện. Cũng như mặtnước yên lặng trong trẻo thì nhìn thấy đáy. Khi Định lực phát hiện thìtự nhiên có hiệu dụng, ta tạm gọi là Thần Lực vậy