Gây tê là gì? Những lưu ý quan trọng bệnh nhân cần phải biết

Gây tê là phương pháp vô cảm, dùng thuốc tê để ức chế tạm thời dẫn truyền xung động thần kinh nhằm làm mất cảm giác đau nhưng người bệnh vẫn còn ý thức nhận biết và tỉnh táo trong khi phẫu thuật. Gây tê áp dụng trong các trường hợp phẫu thuật nhỏ, tứ chi hoặc dành cho người không thể gây mê, giảm đau sau phẫu thuật…

gây tê

Gây tê là gì?

Gây tê là thủ thuật tiêm thuốc vào mô để làm mất đi cảm giác của vùng này, thường được thực hiện trước mỗi ca phẫu thuật. Lúc này, dây thần kinh sẽ ngưng hoạt động tạm thời nên người bệnh sẽ không còn cảm giác đau. Cách gây tê thông thường là tiêm thuốc tê ngay xung quanh vùng cần phẫu thuật. Bác sĩ cũng có thể làm tê tất cả dây thần kinh của một cánh tay hay chân…

Phân loại phương pháp gây tê

Gây tê được chia thành hai phương pháp: Gây tê vùng và gây tê tại chỗ (1). Cụ thể:

Gây tê vùng (Regional Anesthesia)

  • Gây tê vùng thường được sử dụng cho các bộ phận lớn của cơ thể như cánh tay, chân hoặc dưới thắt lưng. Người bệnh được gây tê vẫn ở tình trạng tỉnh táo trong khi làm thủ thuật hoặc được tiêm thuốc an thần. Gây tê vùng thường được sử dụng trong sinh nở, mổ lấy thai hoặc các ca tiểu phẫu.
  • Gây tê vùng được thực hiện bằng cách tiêm vào các vị trí cụ thể một loại thuốc tê có tác dụng lên các dây thần kinh của cơ thể, gây tê bên dưới vết tiêm. Trường hợp phẫu thuật bàn tay, thuốc gây tê có thể làm tê toàn bộ cánh tay và bàn tay, hoặc cảm giác tê có thể chỉ giới hạn ở bàn tay của người bệnh.

Gây tê vùng bao gồm các phương pháp:

  • Gây tê đám rối thần kinh cổ
  • Gây tê đám rối thần kinh cánh tay, đưa thuốc tê vào khu vực đám rối thần kinh cánh tay để làm mất cảm giác đau ở vùng đám rối chi phối.
  • Gây tê ngoài màng cứng, tiêm thuốc tê vào khoang ngoài màng cứng để làm tê các rễ thần kinh. Tùy vị trí phẫu thuật có thể gây tê ở đoạn ngực, thắt lưng hoặc vùng xương cùng.
  • Gây tê tủy sống, bác sĩ sẽ tiêm thuốc tê vào khoang dưới nhện, thuốc hòa tan với dịch não tủy và làm tê các khoanh tủy vùng thắt lưng và các rễ thần kinh.
  • Gây tê tĩnh mạch, tiêm thuốc tê vào tĩnh mạch của một chi để mổ, kế tiếp dùng garô chặn thuốc tê chạy đến nơi khác. Thuốc tê sẽ theo đường tĩnh mạch lan tỏa ra phần mềm dưới garô làm ức chế dẫn truyền cảm giác đau của các dây thần kinh nằm trong vùng chi đã được ép máu.

Gây tê tại chỗ (Local Anesthesia)

  • Gây tê tại chỗ hay còn gọi là gây tê cục bộ áp dụng cho những vùng phẫu thuật nhỏ như vết thương cạn, nhỏ, ngoài da như da đầu, ngón tay, ngón chân…; thời gian phẫu thuật ngắn và người bệnh có thể về nhà ngay trong ngày.
  • Trong quá trình gây tê tại chỗ, thuốc tê được bôi lên da dưới dạng kem, xịt hoặc tiêm vào khu vực sẽ thực hiện thủ thuật. Sau khi hoàn tất khâu gây tê, khu vực này sẽ rơi vào trạng thái tê liệt. Nếu người bệnh vẫn còn cảm giác, bác sĩ có thể tiêm thêm hoặc bôi thuốc để đảm bảo khu vực đó đã được gây tê hoàn toàn.

Gây tê hoạt động như thế nào?

Gây tê vùng ngăn chặn tín hiệu đau từ một bộ phận cụ thể của cơ thể truyền đến não. Cảm giác đau và các thông điệp khác truyền qua hệ thần kinh dưới dạng xung điện. Thuốc gây tê vùng hoạt động bằng cách thiết lập một rào cản điện. Chúng liên kết với các protein trong màng tế bào thần kinh để cho các hạt mang điện ra vào và khóa các hạt mang điện dương.

Thông thường, các tín hiệu điện của não là một bản hợp xướng lộn xộn khi các phần khác nhau của não giao tiếp với nhau. Khả năng kết nối đó giúp chúng ta tỉnh táo và nhận biết các vấn đề xung quanh. Nhưng khi bị gây mê, những tín hiệu trở nên ổn định và có tổ chức hơn, nghĩa là các phần khác nhau của não không còn kết nối với nhau, vì thế người bệnh không còn nhận thức về cảm giác đau khi phẫu thuật.

Khi nào nên chọn thực hiện gây tê?

Cũng theo BS Lưu Kính Khương, dựa trên tình trạng hiện tại của người bệnh và những vấn đề như tiền sử bệnh và bệnh lý kèm theo; cơ địa dị ứng, hen suyễn; nghiện rượu, thuốc lá… bác sĩ sẽ tư vấn cho người bệnh phương pháp vô cảm phù hợp.

Bác sĩ gây mê còn dựa trên các yếu tố tiền sử vô cảm như có tai biến gây mê hay không; kết quả khám lâm sàng và xét nghiệm cận lâm sàng; tính chất cuộc phẫu thuật như cắt bỏ nhiều tổ chức hay ít; vị trí phẫu thuật như đầu mặt, cổ, ngực, bụng, tay chân… Ngoài ra, bác sĩ gây mê còn phải xem xét loại phẫu thuật như lấy thai, phẫu thuật thẩm mỹ, hay cắt khối u…; thời gian phẫu thuật dự kiến; hình thức phẫu thuật nội soi hay phẫu thuật mở; người bệnh ở tư thế nằm ngửa, nghiêng hay sấp…

Quy trình thực hiện gây tê

Quy trình gây tê với những phẫu thuật nhỏ như nhổ răng khôn, đốt bỏ nốt ruồi, mụn cóc, khâu vết thương trên các chi… không cần chuẩn bị nhiều. Tuy nhiên, với thủ thuật gây tê ngoài màng cứng hay gây tê tủy sống thì cần phải được chuẩn bị kỹ càng.

Trước khi phẫu thuật, người bệnh được thăm khám, bác sĩ sẽ giải thích cho họ cùng hợp tác khi gây tê. Tiếp đó, bác sĩ vệ sinh vùng gây tê, cho người bệnh an thần tối hôm trước phẫu thuật (nếu cần). Bệnh nhân cũng được thử phản ứng thuốc tê bằng kỹ thuật test thuốc tê trong da, thường ở một phần ba trên trong da cẳng tay.

Những điều cần biết trước khi thực hiện gây tê

Thời gian hồi phục sau khi gây tê tại chỗ ít hơn nhiều so với gây mê toàn thân và hầu hết các thủ thuật sử dụng gây tê tại chỗ tương đối nhanh chóng. (2)

Tuy nhiên, người bệnh vẫn cần thực hiện một số biện pháp phòng ngừa cơ bản trước khi làm thủ thuật để chuẩn bị cho quá trình gây tê, bao gồm:

  • Nhịn ăn hoặc uống trong một thời gian nhất định trước khi làm thủ thuật
  • Tránh uống rượu hoặc hút thuốc ít nhất 24 giờ trước khi làm thủ thuật
  • Không trang điểm nếu phẫu thuật thực hiện trên khuôn mặt
  • Tháo đồ trang sức khỏi khu vực phẫu thuật

Biến chứng và rủi ro có thể gặp phải khi gây tê

Trong hầu hết trường hợp gây mê là an toàn. Một vài trường hợp, rủi ro có thể xảy ra như tai biến về tim mạch, hô hấp, thần kinh, phản vệ… Các rủi ro cũng phụ thuộc vào loại phẫu thuật, tình trạng của bệnh nhân, loại gây mê được sử dụng. So với gây mê, gây tê có một số ưu điểm hơn, tuy nhiên cũng cần lưu ý các biến chứng có thể gặp của biện pháp này như ngộ độc thuốc tê, yếu liệt chi, tổn thương thần kinh, đau thắt lưng, bí tiểu, đau đầu.

Những rủi ro từ gây tê vùng bao gồm: dị ứng với thuốc gây tê, chảy máu quanh cột sống, đi tiểu khó, giảm huyết áp, nhiễm trùng ở cột sống, tổn thương thần kinh và co giật (rất hiếm khi xảy ra), ngộ độc, nhức đầu dữ dội.

Lời khuyên của bác sĩ sau gây tê

Đối với các thủ thuật áp dụng phương pháp gây tê tại chỗ, người bệnh có thể trở lại làm việc và tiếp tục các hoạt động ngay sau khi điều trị trừ khi bác sĩ có các quy định khác.

Tuy nhiên, người bệnh sẽ cần thêm thời gian để hồi phục nếu thực hiện một trong các phương pháp gây tê vùng. Theo đó, người bệnh cần tuân theo những lưu ý sau:

Khi rời khỏi bệnh viện:

  • Cần có người chở về nhà
  • Không lái xe hoặc vận hành thiết bị máy móc trong vòng 24 giờ sau phẫu thuật
  • Tránh đưa ra quyết định quan trọng hoặc liên quan đến pháp lý trong 24 giờ

Sau khi về nhà:

  • Nghỉ ngơi hợp lý. Sau mỗi ca phẫu thuật dù nhỏ hay lớn cũng sẽ khiến người bệnh ít nhiều bị suy giảm sức lực. Sự thoát tê (là lúc thuốc tê hết tác dụng) sẽ khiến cho cảm giác ở vùng gây tê sẽ quay trở lại. Khi ấy, những cơn đau có thể xuất hiện, gây ảnh hưởng đến sinh hoạt và cơ thể người bệnh. Do đó, người bệnh rất cần nhiều thời gian để nghỉ ngơi.
  • Người bệnh cũng nên được ăn lại qua đường miệng trong vòng 24 giờ sau mổ nếu không có chống chỉ định. Ngoài ra, dinh dưỡng sớm sau mổ cũng làm giảm tỷ lệ tử vong sau mổ. Lý do, dinh dưỡng sớm duy trì hàng rào chất nhầy của lớp niêm mạc ruột, từ đó ngăn vi khuẩn xâm nhập vào máu qua đường tiêu hóa.
  • Tuy nhiên, người bệnh nên tăng dần năng lượng và protein trong khẩu phần ăn. Bắt đầu từ 500Kcal và 30gr protein, sau đó cứ mỗi 1 – 2 ngày tăng thêm 250 – 500kcal cho đến khi đạt 2000 Kcal/ ngày. Sau đó tăng lên 2500kcal đến 3000kcal/ ngày vào giai đoạn cơ thể hồi phục. Nên chia nhỏ bữa ăn (5,6 bữa/ ngày hoặc nhiều hơn), ưu tiên sử dụng thực phẩm dạng sữa, lỏng, thức ăn mềm dễ hấp thụ; bổ sung các loại nước ép trái cây có chứa các thành phần vitamin B, C, PP… giúp cơ thể mau hồi phục.
  • Kiêng uống rượu bia trong 24 giờ sau phẫu thuật.
  • Chỉ dùng thuốc (như thuốc giảm đau…) hoặc chất bổ sung theo chỉ định của bác sĩ.

Dù vẫn còn những tác dụng phụ đối với mỗi phương pháp gây tê thế nhưng lợi ích mang lại vượt xa yếu tố nguy cơ. Cho đến nay, y học vẫn đang tìm tòi và phát triển nhiều phương pháp gây gây tê, gây mê giúp giảm đau và hạn chế tối đa tác dụng phụ cho người bệnh sau phẫu thuật.