Ý nghĩa 7 thủ ấn quan trọng nhất của Phật Giáo

>>Phật tử có thể đọc thêm loạt bài về Đức Phật

Vậy thì thủ ấn là gì? và các thủ ấn mà Đức Phật thể hiện có ý nghĩa như thế nào?

Thủ ấn – Mudra là cử chỉ tay được thực hành trong Yoga kết hợp với Pranayama (bài tập thở), giúp hồi sinh dòng năng lượng đến các bộ phận khác nhau của cơ thể để cải thiện sức khỏe thể chất, và tinh thần của bạn. Theo truyền thống Vệ đà, các ngón tay của bàn tay đại diện cho năm yếu tố cơ bản tạo nên cơ thể con người: đất, nước, gió, không khí và lửa. Dựa trên sự hiểu biết này, đầu ngón tay của chúng ta có nhiều đầu rễ thần kinh tập trung đóng vai trò là điểm xả năng lượng tự do. Khi chạm các đầu ngón tay vào nhau theo những cách khác nhau hoặc đến các bộ phận khác của lòng bàn tay sẽ điều chỉnh và cân bằng dòng năng lượng (Prana) trong cơ thể chúng ta, và năng lượng truyền qua các dây thần kinh kích thích các luân xa khác nhau.

Trong Phật giáo đại thừa, các thủ ấn chỉ các ấn nơi tay, mỗi thủ ấn đều tương ứng với các ý nghĩa đặc biệt. Trong các tông phái như Kim cương thừa Mật tông, các ấn này thường đi đôi với Mantra (thần chú). Ngoài ra, các ấn này giúp hành giả chứng được các cấp tâm thức nội tại, bằng cách giữ vững những vị trí thân thể nhất định và tạo mối liên hệ giữa hành giả với các vị Phật hoặc Đạo sư trong lúc hành trì một Thành tựu Pháp.

Dưới đây là 7 Thủ ấn quan trọng thường được thể hiện phổ biến khi khắc họa trong tranh và tượng Phật nhất:

1. Thiền thủ ấn (Dhyana Mudra)

Bức tượng Phật tư thế thiền ấn cho thấy cả hai tay đặt trong lòng. Mặt sau của bàn tay phải đang dựa vào lòng bàn tay trái. Thường thì các ngón tay cái chạm vào nhau, tạo thành hình tam giác huyền bí. Đây là biểu tượng của thiền, tượng trưng cho trí tuệ, biểu lộ sự giác ngộ đã vượt lên thế giới hiện tượng, nó cũng biểu lộ tâm thức giác ngộ đã vượt qua tâm thức phân biệt, trong đó Luân hồi hay Niết bàn chỉ là một. Đức Phật đã sử dụng thủ ấn này trong lần thiền cuối cùng dưới gốc cây bồ đề khi ngài đạt được giác ngộ.

Thiền thủ ấn

Thiền thủ ấn

2. Thí nguyện thủ ấn ( Varada Mudra)

Cánh tay phải của bức tượng Phật ở tư thế thả lỏng xuống dọc theo cơ thể, lòng bàn tay mở ra phía trước, những ngón tay duỗi ra. Còn cánh tay tay trái cong ở khuỷu tay, bàn tay hướng về phía người nhìn. Năm ngón tay mở rộng đại diện cho năm sự hoàn hảo: hào phóng, đạo đức, kiên nhẫn, nỗ lực và tập trung. Thủ ấn này biểu thị sự dâng hiến, chào đón, từ thiện, cho đi, từ bi và chân thành. Đây cũng là ấn quyết sự hoàn thành ước nguyện chuyên tâm giải thoát nhân loại của Đức Phật.

Thí nguyện thủ ấn

Thí nguyện thủ ấn

3. Vô úy thủ ấn (Abhaya Mudra)

Tư thế của Vô úy thủ ấn cho thấy Đức Phật với bàn tay phải giơ lên ngang tầm ngực, lòng bàn tay hướng ra ngoài và các ngón tay hướng lên trên, trong khi cánh tay trái để xuôi theo tư thế toạ thiền (đối với tượng ngồi) tay trái duỗi hướng xuống đất (đối với tượng đứng). Có nhiều cách giải thích khác nhau về ý nghĩa, nguồn gốc của thủ ấn này, dựa theo sử liệu về cuộc đời đức Phật thì sau khi đạt được giác ngộ và khi Đức Phật bị con voi dữ tấn công Ngài đã sử dụng thủ ấn này. Abhaya là cử chỉ của sự không sợ hãi. Khi bàn tay Phật thể hiện thủ ấn này cho thấy Đức Phật không hề sợ hãi trước một kẻ thù hay nghịch cảnh. Cũng như thể hiện rằng Đức Phật ngay sau khi đạt được giác ngộ đã vượt thoát trên mọi nỗi sợ hãi đau khổ của thế gian.

Vô úy thủ ấn

Vô úy thủ ấn

4. Giáo hóa thủ ấn (Vitarka Mudra)

Trong giáo hóa thủ ấn, đầu ngón tay cái và ngón trỏ ở bàn tay phải đức Phật chạm vào nhau và tạo thành một vòng tròn, các ngón tay còn lại hướng lên trên còn bàn tay trái để ngang bụng. Vitarka tượng trưng cho giai đoạn thuyết giảng trong cuộc đời của Đức Phật và vòng tròn tượng trưng cho một dòng năng lượng và thông tin liên tục. Ấn quyết này cũng còn đuợc gọi biện minh ấn vì đây được xem như Đức Phật đang kêu gọi mọi người hãy giải quyết các vấn đề thông qua tư duy và biện luận.

Giáo hóa thủ ấn

Giáo hóa thủ ấn

5. Chuyển pháp luân thủ ấn (Dharmachakra Mudra)

Thủ ấn này cho thấy đầu ngón tay giữa trên một bàn tay này của Đức Phật, chạm vào đầu ngón tay cái và ngón trỏ của bàn tay kia, tạo thành vòng tròn bí ẩn gần tim. Cử chỉ này biểu thị cho dòng năng lượng liên tục của vũ trụ dưới dạng luân xa (bánh xe) và các giáo lí của nó được thông qua trái tim. Sau khi Đức Phật đạt được giác ngộ, Ngài đã ban giáo lý đầu tiên cho 5 anh em ông Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển và do đó thủ ấn này đại diện cho việc thiết lập Bánh xe Pháp chuyển động.

Chuyển pháp luân thủ ấn

Chuyển pháp luân thủ ấn

6. Trì bình thủ ấn (Patahattha Mudra)

Thủ ấn này vị trí hai bàn tay chồng lên nhau tay phải để trên tay trái hai bàn tay duỗi ra để nâng bình bát. Trong hoạt động hằng ngày của Đức Phật chia làm năm thời đó chính là buổi sáng, buổi trưa, canh đầu, canh giữa và canh cuối. Buổi sáng đó chính là lúc ngài trì bình hóa duyên tế độ những người hữu duyên và thọ thực. Đây là tư thế thủ ấn trì bình mà các nhà nghệ thuật điêu khắc sử dụng để mô tả về đời sống thường nhật của Ngài.

Trì bình thủ ấn

Trì bình thủ ấn

7. Xúc địa thủ ấn (Bhumistarsa Mudra)

Đức phật có tư thế xúc địa thủ ấn luôn được mô tả trong tư thế ngồi kiết già hoặc bán già, với bàn tay trái đặt trên đùi, lòng bàn tay hướng lên trên như trong ấn Thiền Định còn tay phải duỗi xuống, lòng bàn tay xoay vào trong, mu bàn tay đưa ra ngoài, các ngón tay hướng xuống đất. Bhumisparsha, có nghĩa là “chạm vào Trái Đất”, hay gọi Trái Đất để chứng kiến. Thủ ấn này dựa theo sự tích ghi trong Chú giải Phật sử. Khi Ngài ngồi hành thiền trong đêm rằm tháng Vesak, Ma vương (Mara) xuất hiện quấy nhiễu Ngài. Ma vương có ý định đuổi Ngài ra khỏi chỗ ngồi dưới cội bồ đề và hỏi: “Ai là chứng nhân để biết chỗ ngồi này là của Ngài?” Đức Phật từ tư thế thiền định, đặt bàn tay phải chạm đất và tuyên bố: “Mặt đất này là chứng nhân, đã chứng kiến qua nhiều kiếp, ta đã hoàn thiện hạnh Bố thí ba-la-mật, hạnh Trì giới ba-la-mật, và các ba-la-mật khác.” Ngay lúc đó, mặt đất rung chuyển, với âm thanh vang dội khắp vũ trụ. Ma vương run sợ, thất bại, và rút lui.

Xúc địa thủ ấn

Xúc địa thủ ấn

Mudra này đại diện cho khoảnh khắc khi Đức Phật Thích Ca giác ngộ bên dưới cây bồ đề, là ấn quyết mà đức Thích Ca gọi Trái Đất chứng minh mình đạt Phật quả và cũng là dấu hiệu của sự không lay chuyển nơi Đạo vô Thượng Bồ Đề.

Bài viết được tổng hợp từ Wikipedia và nhiều nguồn khác nhau