Hiện nay, hành vi cố ý gây thương tích trở nên rất phổ biến và thường xuyên. Không chỉ gây hại cho sức khỏe của người bị hại, tội phạm cố ý gây thương tích còn có tác động xấu đến trật tự an ninh xã hội. Vậy, quy định về mức phạt cho tội cố ý gây thương tích là như thế nào?
Người thực hiện hành vi cố ý gây thương tích không chịu trách nhiệm hình sự có thể bị xử phạt hành chính theo các trường hợp sau đây:
Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức, thuê, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, kích động người khác cố ý gây thương tích.
Trong trường hợp người ta mang theo hoặc lưu trữ các loại vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ hoặc các loại công cụ, phương tiện khác có khả năng gây hại; đồ vật, phương tiện giao thông với mục đích cố ý gây thương tích cho người khác, sẽ bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.
Có một khoản tiền phạt từ 5.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng áp dụng cho hành vi cố ý gây thương tích nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Theo theo điểm b Điều 3, điểm b Điều 4, điểm a Điều 5 Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP.
2. Xử lý hình sự theo Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
Theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (đã được sửa đổi và bổ sung vào năm 2017), chỉ khi gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể trên 11%, người sẽ chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, còn có các trường hợp đặc biệt sau đây, trong đó dù tỷ lệ tổn thương dưới 11%, vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự:
Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;.
Sử dụng chất axit độc hoặc chất hóa học nguy hiểm.
Những người dưới 16 tuổi, phụ nữ đang mang thai, người già yếu, bị bệnh hoặc người không thể tự vệ không thể tham gia.
Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy cô, người chăm sóc, điều trị cho mình.
Được tổ chức.
Tận dụng chức vụ, thế lực;
Trong thời gian đang bị giam giữ, tạm giữ, đang thực hiện án phạt tù, đang thực hiện biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang thực hiện biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;.
Hành vi mướn người làm hại hoặc gây tổn thương cho sức khỏe người khác là vi phạm pháp luật.
Có đặc điểm hành vi không tốt;
Đối với những người đang thực hiện công việc hoặc vì lý do công việc của người bị hại.
Theo quy định tại Khoản 6 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), ai có ý định sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
3. Cố ý gây thương tích thì ở tù bao nhiêu năm?
Để xác định mức độ hình phạt tù của hành vi gây thương tích cố ý, chúng ta cần xem xét các yếu tố sau: điều kiện xảy ra hành vi, tỷ lệ thương tích gây ra, có sự gia tăng hoặc giảm nhẹ trong tình tiết, và có những yếu tố đặc biệt nào khác không.
Theo quy định tại Điều 134, 135, 136 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), có những trường hợp sau đây:
Có thể bị phạt cải tạo không giam giữ trong vòng 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm nếu có ý định gây thương tích cho người khác và tỷ lệ tổn thương cơ thể là từ 11% đến 30% hoặc dưới 11%, nhưng thuộc vào một trong các trường hợp đặc biệt được nêu tại Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi và bổ sung vào năm 2017).
Các trường hợp bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm bao gồm: gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên, mỗi người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%; phạm tội 02 lần trở lên; tái phạm nguy hiểm; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k, khoản 1 của Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Khi phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe người khác và tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên, sẽ bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm, trừ khi thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Nếu gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên và tỷ lệ tổn thương cơ thể mỗi người từ 31% đến 60%, hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác và tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), cũng sẽ bị phạt tù. Trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên và tỷ lệ tổn thương cơ thể mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) cũng sẽ bị phạt tù.
Nếu có các tình tiết tăng nặng quy định tại Khoản 4 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), thì có thể bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm.
Bị phạt tù từ 12 đến 20 năm hoặc tù chung thân nếu gây chết 02 người trở lên hoặc gây thương tích cho 02 người trở lên với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 61% trở lên và thuộc vào các trường hợp quy định tại các điểm từ a đến k, khoản 1, Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Cá nhân có chủ ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với cá nhân đó hoặc đối với người thân yêu của cá nhân đó, sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ trong vòng 03 năm. Tuy nhiên, nếu có một trong các tình tiết quy định tại Khoản 2 Điều 135 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), cá nhân có thể bị phạt tù từ 06 tháng đến 3 năm.
Người nào có ý định làm tổn thương hoặc gây hại cho sức khỏe của người khác, khi tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc mức cần thiết trong quá trình bắt giữ người phạm tội, sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ trong vòng 03 năm. Tuy nhiên, nếu có một trong các tình tiết quy định tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 136 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), người này có thể bị phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.
4. Trường hợp được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự
Trong một số trường hợp cụ thể, người vi phạm cố ý gây thương tích sẽ tự động được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự theo các quy định sau đây:
Người phạm tội khiến việc phạm tội dừng lại một nửa đường, mặc dù không có bất kỳ trở ngại nào để tiếp tục.
Khi có sự quyết định quan trọng của Quốc hội quy định tại khoản 11 Điều 70 Hiến pháp 2013.
Trong quá trình điều tra, truy tố, và xét xử, pháp luật đã thay đổi chính sách để làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội.
Trong trường hợp bị hại hoặc người đại diện của bị hại quyết định rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án, theo khoản 2 của Điều 155 trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Căn cứ theo quy định tại Điều 16, Khoản 1 Điều 29 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 của Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi và bổ sung vào năm 2017), người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp có một trong những lý do sau đây:
Trong quá trình thực hiện cuộc điều tra, truy tố và xét xử, khi tình hình thay đổi đến mức người phạm tội không còn đe dọa xã hội nữa.
Người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo khi bị điều tra, truy tố và xét xử không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội.
Trước khi bị phát hiện phạm tội, người phạm tội tự thú và trình bày chi tiết về sự việc, góp phần quan trọng vào công tác phát hiện và điều tra tội phạm. Họ cố gắng giảm thiểu tối đa hậu quả của tội phạm và đóng góp đáng kể, được sự công nhận từ Nhà nước và xã hội.
Những người phạm tội không nghiêm trọng (như gây thương tích hoặc hại sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội) nhưng gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, nếu tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
5. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định
Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về các tình tiết giảm nhẹ bao gồm:.
Kẻ phạm tội đã ngăn chặn hoặc giảm thiểu tác động xấu của tội ác.
Người vi phạm tự nguyện sửa chữa, đền bù thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả.
Phạm tội khi vượt quá ranh giới của phòng vệ hợp lý.
Phạm tội khi vượt quá đòi hỏi của hoàn cảnh khẩn cấp.
Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người vi phạm tội.
Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;.
Bị buộc tội vì tình huống đặc biệt khó khăn không phải do người đó gây ra.
Phạm tội tuy nhiên chưa gây tổn hại hoặc gây tổn hại không đáng kể.
Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp không nghiêm trọng.
Bị tội vì bị người khác đe dọa hoặc ép buộc.
Tội phạm trong trường hợp bị giới hạn khả năng nhận thức mà không phải do sai lầm của bản thân gây ra;
Tội phạm do lỗi thời.
Phụ nữ mang bầu là người phạm tội.
Người vi phạm là những người có độ tuổi từ 70 trở lên.
Người vi phạm là những người tàn tật nghiêm trọng hoặc tàn tật đặc biệt nghiêm trọng.
Người vi phạm luật là người bị ảnh hưởng bởi những ràng buộc về khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của bản thân.
Kẻ phạm tội thú nhận tội tự nguyện.
Người vi phạm tội thành thật khai báo, hối hận và cải tạo.
Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
Kẻ phạm tội đã đền tội bằng công việc.
Những người phạm tội là những người có thành tích ưu tú trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác.
Người vi phạm là người đã đóng góp cho cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của người hy sinh.
Tòa án có thể xem xét đầu thú hoặc các tình tiết khác như làm giảm nhẹ hình phạt, tuy nhiên phải đưa ra lý do cụ thể trong bản án.
Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) đã quy định rằng các tình tiết giảm nhẹ không được xem là dấu hiệu định tội hoặc định khung trong quyết định hình phạt.
Tôi là Nguyễn Văn Sỹ có 15 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thiết kế, thi công đồ nội thất; với niềm đam mê và yêu nghề tôi đã tạo ra những thiết kếtuyệt vời trong phòng khách, phòng bếp, phòng ngủ, sân vườn… Ngoài ra với khả năng nghiên cứu, tìm tòi học hỏi các kiến thức đời sống xã hội và sự kiện, tôi đã đưa ra những kiến thức bổ ích tại website nhaxinhplaza.vn. Hy vọng những kiến thức mà tôi chia sẻ này sẽ giúp ích cho bạn!