Tiểu sử Đại thi hào Nguyễn Du

Cha tôi là ông Nguyễn Nghiễm, sinh ra tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông có tên tự là Hy Di, hiệu là Nghi Hiên và biệt hiệu là Hồng Ngự cư sĩ đậu Nhị giáp tiến sĩ. Ông đã làm quan đến chức Đại tư đồ (Tể tướng) trong triều đại Lê. Mẹ tôi là bà Trần Thị Tần (1740 – 1778), con gái của một quan chức Câu kế, quê ở làng Hoa Thiều, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du (Đông Ngàn), tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Bà Tần là vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm và có năng khiếu trong ca hát. Vào năm Đinh Hợi (1767), khi tôi mới một tuổi, cha tôi được thăng cấp lên Thái tử Thái bảo và trở thành Xuân Quận công, khiến cho cuộc sống của tôi lúc đó trở nên giàu có và sung túc.

Nguyễn Du, một danh nhân văn hóa vĩ đại trong lịch sử nước ta, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người Việt Nam.

Năm 1774, cha Nguyễn Du được phong chức Tể tướng, cùng Hoàng Ngũ Phúc đi đánh chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Từ thời điểm này, Nguyễn Du trải qua nhiều tổn thất: Năm 1775, anh trai cùng mẹ là Nguyễn Trụ (sinh năm 1757) qua đời. Năm 1776 (Bính Thân), cha Nguyễn Du qua đời. Năm 1778 (Mậu Tuất), bà Trần Thị Tần, mẹ Nguyễn Du qua đời. Trong năm này, anh thứ hai của Nguyễn Du là Nguyễn Điều (sinh năm 1745) được bổ làm Trấn thủ Hưng Hóa.

Năm 1780, Nguyễn Khản, anh cả của Nguyễn Du, đang đảm nhiệm vị trí Trấn thủ Sơn Tây, bị buộc tội và bị giam cầm tại nhà Châu Quận công trong vụ án năm Canh Tý. Trong khi đó, Nguyễn Du được Đoàn Nguyễn Tuấn, một người thân của Nguyễn Nghiễm, đón về Sơn Nam Hạ (Nam Định) để được nuôi dưỡng và học hành. Năm 1782, Trịnh Sâm qua đời, Trịnh Cán bị tước quyền và Trịnh Tông lên ngôi chúa. Hai anh em của Nguyễn Du, Nguyễn Khản, được bổ nhiệm làm Thượng thư bộ Lại (hay Toản Quận công), và Nguyễn Điều được giao nhiệm vụ Trấn thủ Sơn Tây.

Năm 1783, Nguyễn Du thi đỗ trường Sơn Nam và đậu Tam trường. Ông kết hôn với con gái Đoàn Nguyễn Thục và được bổ nhiệm chức Chánh thủ hiệu quân hùng hậu. Trong năm này, Nguyễn Du và mẹ là Nguyễn Đề đỗ đầu kỳ thi Hương ở điện Phụng Thiên, còn Nguyễn Khản thăng chức Thiếu Bảo và Tham tụng. Tháng 2 năm 1784, kiêu binh nổi dậy và Lê Duy Kỳ trở thành thái tử. Nguyễn Khản phải trốn lên ở với em trai Nguyễn Điều ở Sơn Tây sau khi dinh của mình bị phá. Năm 1786, Nguyễn Khản qua đời tại Thăng Long và năm 1789, Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Trong khi đó, Đoàn Nguyễn Tuấn giữ chức Thị lang bộ Lại và Nguyễn Du trở về quê vợ ở Quỳnh Côi, Thái Bình.

Tháng mười năm Tân Hợi (1791), Nguyễn Quýnh, anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du, đã bị bắt và giết do tham gia chống Tây Sơn. Dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền Hà Tĩnh cũng đã bị Tây Sơn phá hủy. Năm 1793, trong năm Quý Sửu, Nguyễn Du trở về quê Tiên Điền và cuối năm, ông đến kinh đô Phú Xuân để thăm anh trai là Nguyễn Đề, người đang làm thái tử tại viện cơ mật và anh vợ của Nguyễn Đề là Đoàn Nguyễn Tuấn. Năm 1794, trong năm Giáp Dần, Nguyễn Đề được thăng chức Tả phụng nghi bộ Binh và được gửi đến Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung vụ. Vào năm 1795, Nguyễn Đề đã được đi sứ sang Yên Kinh tham dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long nhà Thanh. Cuối cùng, vào năm 1796, khi trở về, Nguyễn Đề đã được thăng chức Tả Đồng Nghị Trung Thư Sảnh.

Vào mùa Đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du lẩn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh, nhưng bị Quận công Nguyễn Thận bắt giam trong ba tháng ở Nghệ An. Sau khi được tha, ông trở về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian bị giam, ông viết ra bài thơ “My trung mạn hứng” (Cảm hứng trong tù). Vào mùa thu năm Nhâm Tuất (1802), Vua Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn. Nguyễn Du được bổ nhiệm làm quan Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Một vài tháng sau, ông được thăng chức lên Tri Phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội). Năm 1803, Nguyễn Du được cử lên ải Nam Quan tiếp sứ nhà Thanh và trao phong sắc cho vua Gia Long. Năm 1805 (Ất Sửu), ông được thăng chức Đông Các Đại Học Sĩ (hàm Ngũ phẩm), tức là Du Đức hầu và vào nhận chức ở kinh đô Phú Xuân. Năm 1807, ông được cử làm giám khảo kỳ thi Hương ở Hải Dương. Vào mùa thu năm 1808, ông xin về quê nghỉ. Năm 1809, ông được bổ chức Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình. Năm Quý Dậu 1813, ông được thăng chức Cần chánh điện học sĩ và được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814, ông đi sứ về và được thăng chức Hữu tham chi bộ Lễ (hàm Tam phẩm). Vào năm Bính Tý (1816), anh rể của Nguyễn Du là Vũ Trinh vì liên quan đến vụ án cha con Tổng trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày vào Quảng Nam.

Năm 1820, sau khi Gia Long qua đời, Minh Mạng lên ngôi. Lúc này, Nguyễn Du được gửi đi làm đại sứ sang nhà Thanh để báo tang và cầu phong. Tuy nhiên, trước khi kịp đi, ông đã mắc bệnh dịch và qua đời vào ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18-9-1820), hưởng thọ 54 tuổi. Mộ của ông được mai táng tại làng An Ninh, huyện Hương Trà (gần chùa Thiện Mụ). Vào năm Giáp Thân (1824), người ta đã di chuyển mộ ông về quê nhà Tiên Điền, Hà Tĩnh.

Năm 1965, UNESCO đã công nhận ông là danh nhân văn hóa thế giới và quyết định tổ chức một sự kiện trọng thể để kỉ niệm 200 năm ngày sinh của ông.

Cuộc đời của Nguyễn Du trải qua bi kịch. Mặc dù sinh ra trong một gia đình giàu có và quý tộc, nhưng ông đã phải đối mặt với sự đổ vỡ và khó khăn khi cơn lốc lịch sử quét qua, đẩy ông vào cuộc sống bất ổn, lang thang và xa xứ. Tuy nhiên, bi kịch lớn nhất của ông không phải là việc ông mong muốn một sự nghiệp vinh quang nhưng lại phải chấp nhận cuộc sống buồn tẻ và vô vị, không có bất kỳ hoạt động nào đáng để say mê và kiên nhẫn theo đuổi. Nguyễn Du đã sống như một người bình thường giữa cuộc sống và nhờ đó, ông có thể đồng cảm sâu sắc với mọi khổ đau của con người. Ông nhìn nhận cuộc đời với một cái nhìn sâu sắc, như một người đứng giữa cuộc bão của cuộc sống, và điều này đã tạo nên một chiều sâu chưa từng có trong văn học Việt Nam thời trung đại trong tác phẩm của ông.

Nguyễn Du để lại một tài sản văn chương to lớn với những tác phẩm xuất sắc, ông đã hoàn thiện ở mọi thể loại, đạt đến trình độ cổ điển.

Nguyễn Du là một nhà thơ với ba tập thơ khác nhau. Tập thơ Thanh Hiên bao gồm 78 bài viết khi ông còn sống ở quê vợ và quê nhà Nghi Xuân từ năm 1786 đến 1804. Tập thơ Nam trung tạp ngâm gồm 40 bài viết trong thời gian ông làm quan với triều Nguyễn từ năm 1805 đến 1813. Tập thơ Bắc hành tạp lục có 132 bài viết được sáng tác khi ông đi sứ Trung Quốc theo lệnh của vua từ năm 1813 đến 1814, tổng cộng là 250 bài. Trong thơ chữ Hán của ông, có những tác phẩm nổi tiếng như Đọc Tiểu Thanh kí, Bài ca những điều trông thấy (Sở kiến hành), Bài ca người gảy đàn đất Long Thành (Long Thành cầm giả ca), Người hát rong ở Thái Bình (Thái Bình mại ca giả), Chống lại bài “Chiêu hồn” (Phản “chiêu hồn”)….

Nguyễn Du, một nhà thơ chữ Nôm, đã sáng tác hai kiệt tác nổi tiếng là Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) với 3254 câu thơ lục bát và Văn tế thập loại chúng sinh với 184 câu viết theo thể song thất lục bát. Ngoài ra, ông còn tạo ra một số tác phẩm mang nét dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu và bài vè Thác lời trai phường nón.

Nguyễn Du là một nhà thơ có tấm lòng sâu sắc và rộng lượng, ông không chỉ sáng tạo mà còn phê phán thực tế một cách mạnh mẽ và sắc bén. Những tác phẩm của ông là kết quả của việc kết hợp giữa văn học chữ Hán và chữ Nôm, đại diện cho tinh hoa của nhiều thể loại văn học, và đặc biệt là tác phẩm Truyện Kiều. Ông đã có công đáng kể trong việc nâng cao trình độ văn học Tiếng Việt lên một tầm cao mới, trở thành một trong những nhà văn cổ điển xuất sắc. Vì những đóng góp đáng kể này, ông xứng đáng được trao danh hiệu Đại thi hào dân tộc và Danh nhân văn hóa thế giới.

Nguồn thpt-nguyendu-brvt.Edu.Vn.