Tiềm năng phát triển các ngành kinh tế biển của Việt Nam

Giàn khoan dầu khí Việt Nam
Trong 60 năm xây dựng và phát triển, ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam đã có đóng góp quan trọng cho nền kinh tế, trở thành một trong những ngành kinh tế biển chủ lực của nước ta.

Tiềm năng phát triển của một số ngành kinh tế biển có triển vọng ở nước ta bao gồm hoạt động khai thác thuỷ sản, kinh tế hàng hải, du lịch biển và kinh tế đảo, dầu khí, và năng lượng tái tạo.

Tiềm năng phát triển hoạt động khai thác thuỷ sản

Việt Nam có đặc điểm sinh học đa dạng và hệ sinh thái biển phong phú, đóng góp một lượng lớn nguồn lợi thuỷ sản cho nền kinh tế. Mỗi năm, chúng ta có thể khai thác được khoảng 2,3 triệu tấn cá biển một cách bền vững, không tính đến tôm biển, mực và các loài sinh vật đáy khác. Ngoài ra, chúng ta đã phát hiện và khai thác ổn định khoảng 15 bãi cá lớn và các bãi tôm ở vùng biển ven bờ thuộc Vịnh Bắc Bộ và biển Tây Nam Bộ. Mùa sinh sản cá diễn ra quanh năm, đạt đỉnh từ tháng 3 đến tháng 7 hàng năm. Tuy nhiên, quần đàn cá biển ở Việt Nam không lớn, với đàn cá nhỏ dưới 5 x 20m chiếm 84% tổng số, trong khi đàn cá lớn cỡ 20 x 500m chỉ chiếm 0,1%. Do đó, nghề cá ở nước ta được gọi là “nghề cá đa loài”, với quy mô khai thác nhỏ gắn liền với sinh kế của người dân ven biển và trên các đảo ven bờ.

Yêu cầu bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản như vậy cần được thực hiện tốt, vì trong quá trình khai thác, có thể phải loại bỏ từ 30% – 70% lượng cá không mong muốn để bắt được loài cá kinh tế.

Tiềm năng của sinh vật biển, vùng ven biển và đảo đã tạo ra một cơ sở quan trọng, giúp đưa nước ta trở thành một quốc gia phát triển vững mạnh trong lĩnh vực thuỷ sản. Trong thời gian gần đây, khoảng 80% lượng thuỷ sản đã được khai thác từ vùng biển ven bờ và vùng nước lợ ven biển, đáp ứng nhu cầu quan trọng về protein cho người dân và có đóng góp đáng kể, ổn định vào thị trường xuất khẩu, mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước.

Tiềm năng phát triển kinh tế hàng hải

Với bờ biển dài (hơn 3.200 km, không tính bờ các đảo), khúc khuỷu, nhiều eo, vũng, vịnh và khoảng hơn 114 cửa sông lớn, Nước ta có lợi thế trong phát triển kinh tế hàng hải và cảng biển. Trung bình cứ khoảng 20 km có một cửa sông lớn. Dải ven biển tập trung khoảng 50% đô thị lớn, 18 khu kinh tế ven biển và khoảng 300 khu công nghiệp, khu chế xuất và 4 vùng kinh tế trọng điểm – là các điểm trung chuyển, tập kết hàng hoá nội địa quan trọng cho các cảng và vận tải biển.

Ngoài ra, ven bờ biển của nước ta còn nằm gần các tuyến hàng hải quốc tế và khu vực đi qua Biển Đông, đây là một vị trí chiến lược trên trục đường vận tải biển quốc tế để trung chuyển hàng hoá giữa châu Á và các châu lục khác. Trung bình mỗi ngày có khoảng 250 – 300 tàu biển vận chuyển đi qua Biển Đông, trong đó hơn 50% tàu có trọng tải trên 5.000 DWT, khoảng 15-20% tàu có trọng tải từ 30.000 DWT trở lên, chiếm 1/4 tổng số tàu hoạt động trên các vùng biển trên toàn cầu. Ngoài hai vịnh lớn là Vịnh Bắc Bộ và Vịnh Thái Lan, còn có khoảng 50 vũng, vịnh nhỏ ven bờ biển (chiếm khoảng 60% chiều dài đường bờ biển), trong đó có 12 vũng lớn, đủ độ sâu để làm cảng biển.

Trong thời gian gần đây, hệ thống đường giao thông ven biển của nước ta đã liên tục phát triển. Hầu hết các thành phố và tỉnh ven biển đều có sân bay và tuyến đường sắt Bắc-Nam, cùng với hệ thống đường bộ kết nối các tỉnh và vùng miền. Đặc biệt, một số tuyến đường cao tốc đã được xây dựng để tạo ra sự kết nối liền mạch. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển cảng biển, đóng vai trò là cửa ngõ giao thương và hội nhập quốc tế. Đồng thời, nó cũng tạo điều kiện tốt hơn cho việc liên kết các vùng trong quá trình phát triển kinh tế biển của nước ta.

Bờ biển nước ta có thể mở ra theo ba hướng Đông, Nam và Tây Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương quốc tế. Ngoài cảng biển, có nhiều vị trí phù hợp để xây dựng nhà máy đóng tàu và sửa chữa tàu biển, giúp phát triển công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển. Có hơn 100 địa điểm tự nhiên có thể xây dựng thành cảng biển, trong đó có những vị trí phù hợp để xây dựng cảng nước sâu. Một số địa điểm có thể xây dựng cảng trung chuyển và cảng cửa ngõ quốc tế lớn trong khu vực.

Cụ thể, có thể xây dựng khoảng 10 điểm thành cảng biển nước sâu và nhiều điểm cảng tầm trung, với tổng sản lượng hàng hoá vận chuyển lên tới hơn 50 triệu tấn/năm. Điều này tạo điều kiện cho phát triển của các dịch vụ hàng hải – cảng biển. Ngoài ra, ngành công nghiệp đóng tàu và lĩnh vực dịch vụ hàng hải cũng có nhiều lợi thế để phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay, ngành kinh tế hàng hải chưa tận dụng hết những lợi thế đã có.

Tiềm năng phát triển du lịch biển và kinh tế đảo

Việt Nam được đánh giá sở hữu nhiều cảnh quan biển và đảo đẹp, bao gồm cảnh quan ngầm dưới đáy biển ở các vùng rạn san hô. Nước ta còn có khoảng 125 bãi cát biển, trong đó có trên 20 bãi biển đạt tầm quốc tế về quy mô và hình thức. Một số tổ chức quốc tế uy tín đã bình chọn một số bãi biển của Việt Nam là những bãi tắm đẹp nhất thế giới, như bãi biển Đà Nẵng, Lăng Cô và Nha Trang. Ngoài ra, Việt Nam cũng nằm trong danh sách 12 quốc gia có các vịnh đẹp nhất thế giới, bao gồm vịnh Hạ Long và vịnh Lăng Cô.

Việt Nam là một quốc gia với nhiều đảo, đảo là một loại hình hệ sinh thái đặc biệt, chúng tạo thành các tuyến đảo, cụm đảo, quần đảo và hệ thống đảo quốc gia. Các đảo của chúng ta tự nhiên được phân bố thành các tuyến và nhìn từ đất liền ra biển, chúng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lãnh thổ đất liền của Tổ quốc, đặc biệt là Hoàng Sa và Trường Sa. Vì vậy, mỗi hòn đảo có thể được coi là một biểu tượng chủ quyền tự nhiên của quốc gia chúng ta. Ngoài ra, về mặt an ninh và quốc phòng, mỗi hòn đảo cũng giống như một “chiến hạm không thể đánh chìm”, và về mặt kinh tế, mỗi hòn đảo đều có ý nghĩa quan trọng như một “viên ngọc xanh” của đất nước.

Hệ thống đảo ở Việt Nam tập trung chủ yếu ở bờ biển Quảng Ninh – Hải Phòng. Khu vực này là nơi tập trung nhiều di sản thế giới, khu dự trữ biển và các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, cùng nhiều di tích văn hoá – lịch sử. Ngoài ra, các đảo lớn và đông dân cư như Phú Quốc, Cái Bàu, Cát Bà, Lý Sơn, Phú Quý, Côn Đảo… Cung cấp tiềm năng lớn cho phát triển du lịch biển, cũng là nơi hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi với các tài nguyên tự nhiên đa dạng và phong phú để xây dựng “chuỗi đô thị đảo” – nền tảng cho phát triển kinh tế đảo trong tương lai gần.

Nước ta có thể xây dựng và phát triển nhiều cụm đảo thành trung tâm kinh tế biển – đảo và dịch vụ hậu cần cho các hoạt động biển xa, cũng như cho các hoạt động khai thác biển và du lịch biển. Kết hợp với khu vực ven biển, các cụm đảo tạo ra những vị trí địa lý quan trọng cho phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ an ninh và chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc ta.

Các khu kinh tế trên đảo có vai trò quan trọng trong không gian kinh tế biển, tạo ra tác động lớn đến các vùng biển xung quanh và là điểm kết nối giữa ven biển và các vùng biển khác. Trên hơn 3.000 đảo, chỉ khoảng 70 đảo có dân cư, phần lớn là đảo hoang sơ. Ngoài cảnh quan tuyệt đẹp, các đảo, đặc biệt là các đảo nhỏ, còn có hệ sinh thái quan trọng cho nguồn lợi hải sản và phát triển du lịch biển – đảo. Các làng cá, di tích văn hoá và lịch sử trên nhiều đảo cũng góp phần hình thành giá trị du lịch nghề cá và “văn hoá biển – đảo thuần Việt”, tuy nhiên, tiềm năng này chưa được khai thác và phát triển đúng mức.

Với tiềm năng lớn như vậy, ngoài kinh tế đảo, Việt Nam có thể phát triển du lịch biển và đảo với nhiều hình thức khác nhau. Du khách có thể tham quan các di sản thế giới ở vùng ven biển, khám phá các di tích lịch sử văn hoá, tận hưởng cảnh quan biển tuyệt đẹp, nghỉ dưỡng tại các khu nghỉ dưỡng ven biển, tham gia các hoạt động thể thao biển, hoặc trải nghiệm du lịch sinh thái tại các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên ven biển và các khu dự trữ sinh quyển. Có nhiều khu vực tiềm năng và được ưu tiên cho phát triển du lịch biển ở nước ta, bao gồm vùng ven biển Bắc Bộ như Hạ Long – Cát Bà – Đồ Sơn, vùng ven biển Bắc Trung Bộ như Huế – Đà Nẵng và khu vực phụ cận, vùng ven biển Nam Trung Bộ như Vân Phong – Nha Trang – Ninh Chữ, vùng ven biển – đảo Đông Nam Bộ như TP.Hồ Chí Minh – Côn Đảo – Vũng Tàu – Long Hải, và vùng ven biển – đảo Tây Nam Bộ như Rạch Giá – Hà Tiên – Phú Quốc.

Tiềm năng phát triển ngành dầu khí

Dầu khí là một hợp chất gồm dầu thô, khí tự nhiên và hydrocarbon tồn tại ở dạng khí, lỏng, rắn hoặc nửa rắn trong tự nhiên, bao gồm cả khí than, sulphur và các chất tương tự khác kèm theo hydrocarbon. Tuy nhiên, dầu khí không bao gồm than, đá phiến sét, bitum hoặc các khoáng sản khác có thể chiết xuất dầu.

Vùng thềm lục địa tự nhiên của nước ta rộng lớn, kéo dài từ lục địa ra biển. Phần chân lục địa cũng mở rộng tới quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam. Các cấu trúc địa chất – kiến tạo ở khu vực này cung cấp cơ sở cho việc tìm kiếm và đánh giá tiềm năng dầu khí.

Việt Nam đã thăm dò và khảo sát nguồn dầu khí, với trữ lượng tiềm năng khoảng 4-8 tỷ m3 dầu quy đổi. Các hoạt động tìm kiếm đã phát hiện thêm một số mỏ mới, gia tăng trữ lượng dầu khí của nước ta. Dầu khí ở Việt Nam được chia thành 170 lô và cũng có vùng chồng lấn với các nước láng giềng. Hiện nay, khai thác dầu khí chủ yếu diễn ra ở lòng đất dưới đáy biển khu vực thềm lụa địa phía Nam, với độ sâu từ 50-200 m nước.

Trong suốt 60 năm xây dựng và phát triển, ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam đã có đóng góp quan trọng cho nền kinh tế, đặc biệt là giúp đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng về năng lượng, thiếu hụt ngân sách trong thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Đặc biệt, việc hình thành các khu công nghiệp dầu khí ven biển quan trọng và các công trình dầu khí trên thềm lục địa đã góp phần bảo đảm chủ quyền quốc gia và an ninh quốc phòng.

Ngành dịch vụ kỹ thuật công nghệ cao được phát triển với các công trình khai thác dầu khí biển đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, chế tạo giàn khoan tự nâng hiện đại 90 – 120 m nước, giàn công nghệ khai thác dầu khí ở khu vực nước sâu, xa bờ, là các cột mốc quan trọng khẳng định chủ quyền quốc gia trên biển.

Tính đến cuối năm 2020, sản lượng khai thác của Việt Nam đạt trên 424 triệu tấn dầu và condensate, trên 160 tỷ m3 khí, có thời điểm đóng góp gần 30% cho ngân sách Nhà nước và 22-25% cho GDP.

Tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo biển nước ta

Việc nghiên cứu và đầu tư vào các nguồn năng lượng tái tạo trên biển Việt Nam đã mang lại những kết quả đáng kể. Năng lượng mặt trời, gió, sóng, thuỷ triều, nhiệt và sinh học đã được xem là tiềm năng phát triển kinh tế biển xanh trong tương lai gần. Trong những năm vừa qua, nghiên cứu và đầu tư vào các nguồn năng lượng gió và mặt trời trên đất liền và ven biển đã được thực hiện. Các trạm phát điện tổng hợp sử dụng cả năng lượng mặt trời và gió đã được triển khai tại các đảo Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ và Cù Lao Chàm.

Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi để phát triển điện gió. Có khoảng 17.400 ha được đánh giá thích hợp cho các dự án năng lượng gió. Vùng ven biển, đặc biệt là vùng ven bờ đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích rộng khoảng 112.000 km2, khu vực có độ sâu từ 30m đến 60m có diện tích rộng khoảng 142.000 km2 có tiềm năng phát triển điện gió biển rất tốt. Tiềm năng năng lượng gió ở độ cao 80m trên biển với tốc độ gió 8 m/s là 1,3 nghìn GW. Khu vực biển từ Bình Thuận đến Cà Mau (rộng khoảng 44.000 km2) có độ sâu từ 0 – 30 m có tốc độ gió trung bình ở độ cao 100m đạt từ 7 đến 10 m/s, đáp ứng yêu cầu cho phát triển điện gió trên biển. Các thử nghiệm thực tế tại đảo Phú Quý và Bạc Liêu cho thấy các turbine gió hoạt động tốt và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam có tiềm năng 475.000 MW điện gió ngoài khơi ở vùng biển có độ sâu nhỏ hơn 200 m.

Năng lượng mặt trời trên Biển Đông có tiềm năng bức xạ mặt trời tăng dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Trên vùng biển gần bờ của Việt Nam, cường độ bức xạ mặt trời được phân bố thành 2 vùng rõ rệt: phần Bắc vĩ tuyến 15 độ N chủ yếu dưới 5.000 Wh/m2/ngày, ven biển Bắc Bộ xuống dưới 4.000 Wh/m2/ngày, và ven biển Đông Bắc dưới 3.500 Wh/m2/ngày; phần Nam vĩ tuyến 15 độ N có cường độ bức xạ tăng rõ rệt. Trên khu vực ven biển Đông Nam Bộ, cường độ bức xạ đạt trên 5.000 Wh/m2/ngày.

Các kết quả tính toán hiện tại cho thấy năng lượng sóng ở vùng ven bờ biển nước ta có tiềm năng lớn, phụ thuộc vào mùa gió đông bắc và gió tây nam. Các vùng thoáng có đà sóng lớn theo hướng đông bắc, tây nam và nam đều nhận được năng lượng sóng đáng kể. Vì vậy, có thể chia dải ven biển Việt Nam thành 6 vùng với đặc điểm năng lượng sóng khác nhau.

Cụ thể, vùng 1 từ Quảng Ninh – Ninh Bình có năng lượng sóng chiếm ưu thế vào các tháng 6, 7 và 8. Mật độ năng lượng sóng ven bờ ở vùng này khá đều quanh năm, đạt trên 3 – 5 kW/m trung bình hàng năm. Vùng 2 từ Thanh Hoá – Hà Tĩnh có dòng năng lượng sóng ven bờ trung bình năm cao nhất từ tháng 10 năm trước đến tháng 2 năm sau, đạt khoảng 4,1 kW/m. Vùng 3 từ Quảng Bình – Quảng Nam có dòng năng lượng sóng khá nhỏ quanh năm nhưng mật độ năng lượng sóng ở vùng này cao, đạt khoảng 6,5 kW/m.

Vùng 4 từ Quảng Ngãi – Ninh Thuận là nơi có dòng năng lượng sóng mạnh nhất trên toàn bộ bờ biển Việt Nam. Đặc điểm của vùng này là tiếp xúc trực tiếp với biển và không bị giới hạn đà sóng trong cả hai mùa gió. Mật độ năng lượng sóng trung bình hàng năm ở vùng này rất cao, khoảng 8,5 kW/m. Vùng 5 từ Bình Thuận – Bạc Liêu có dòng năng lượng sóng không lớn, mật độ năng lượng sóng trung bình hàng năm chỉ ở mức trung bình như vùng 2, đạt khoảng 4,8 kW/m. Vùng 6 từ Cà Mau – Kiên Giang là nơi có dòng năng lượng sóng yếu nhất trên toàn bộ bờ biển Việt Nam, mật độ năng lượng sóng trung bình hàng năm của vùng này tương đương với vùng 1, đạt khoảng 3,3 kW/m.

Khu vực quần đảo Trường Sa có thể khai thác nguồn năng lượng sóng trong mùa gió mùa Tây Nam với độ lớn cực đại khoảng 10 kW/m, điều này đáng chú ý.