Chùm thơ song thất lục bát ngắn gọn ý nghĩa

Cách gieo vần thơ song thất lục bát thoạt nhìn qua, tưởng chừng như không theo bất cứ quy luật thơ ca nào. Tuy nhiên khi nhìn lại bạn sẽ thấy được cách bỏ chữ đầy thú vị, không tạo cảm giác gò bó. Tác giả dễ dàng thổi hồn mình vào từng câu thơ, chạm đến trái tim người mến mộ, tạo nên nét đặc trưng riêng.

Vậy thể thơ song thất lục bát là gì? Cùng chúng tôi điểm lại những bài thơ để lại ấn tượng trong lòng những người yêu thích thơ ca nhé!

1. Thơ song thất lục bát

1.1 Thơ song thất lục bát là gì?

tho-song-that-luc-bat-voh-1

Theo cách đếm số Hán Việt ta có cách gọi như sau: lục là số 6, thất là số 7, bát là số 8. Đồng thời chữ “song” dùng chỉ hai sự vật/ hiện tượng giống nhau. Thơ song thất lục bát là thể thơ có hai câu bảy chữ, xen kẽ là một câu sáu chữ và một câu tiếp theo là tám chữ.

Trải dọc theo thời gian, mặc dù thể thơ này không còn được ưa chuộng như trước, nhưng nó vẫn mang giá trị tinh thần to lớn, gắn liền với hình ảnh bình dị của người dân Việt Nam.

Những bài thơ song thất lục bát tiêu biểu trở thành niềm tự hào của dân tộc như: Chinh phụ ngâm (Đoàn Thị Điểm), Khóc Dương Khuê (Nguyễn Khuyến), Hải Ngoại huyết thư (Phan Bội Châu), Tế thập loại chúng sinh (Nguyễn Du),..

1.2 Cách làm thơ song thất lục bát

Để kết nối và duy trì thể thơ này, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại cách làm thơ song thất lục bát. Trong một bài thơ chứa nhiều khổ thơ nhỏ. Theo đó, mỗi khổ bao gồm bốn câu khác nhau: hai câu bảy chữ, một câu sáu chữ và còn lại là câu tám chữ.

Đến với câu thơ 7 chữ đầu tiên, chữ thứ năm vần bằng (B) và chữ cuối được gieo vần trắc (T), đồng thời hiệp vần với chữ thứ năm của câu thất thứ hai. Với chữ cuối câu sáu chữ vần B, lại gieo vần với chữ cuối của câu bảy trước đó và chữ thứ sáu của câu bát.

Ngoài ra, nếu chữ cuối câu tám kết thúc bằng vần T hoặc B, bạn sẽ phải gieo vần với chữ thứ năm hoặc thứ ba tương tự với câu thơ bảy đầu tiên của khổ tiếp theo, sao cho phù hợp.

Trích từ bài thơ “Giã Biệt Thu” của tác giả Hoàng Mai, ta thấy:

“Nơi góc bể tưởng ai nhớ mãi! Tấm chân tình ân ái bấy lâu! Sao người nỡ vội gieo sầu! Ra đi chẳng gửi đôi câu giã từ!”.

2. Những bài thơ song thất lục bát hay

Khi nhắc đến bài thơ song thất lục bát, ta sẽ không thể không kể đến những tác phẩm “để đời”, dù trải qua hàng trăm nhưng vẫn còn nguyên giá trị tới hiện tại. Dưới đây là đoạn trích từ những tác phẩm nổi tiếng ấy, mà có lẽ chúng ta đã được học từ thuở còn trên ghế nhà trường.

2.1 Bài thơ Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ – trích Chinh Phụ Ngâm

tho-song-that-luc-bat-voh-2

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen. Ngoài rèm thước chẳng mách tin, Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng ? Đèn có biết dường bằng chẳng biết, Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. Buồn rầu nói chẳng nên lời, Hoa đèn kia với bóng người khá thương. Gà eo óc gáy sương năm trống, Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên. Khắc giờ đằng đẳng như niên, Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa. Hương gượng đốt hồn đà mê mải, Gương gượng soi lệ lại châu chan. Sắt cầm gượng gảy ngón đàn, Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng. Lòng này gửi gió đông có tiện? Nghìn vàng xin gửi đến non Yên Non Non Yên dù chẳng tới miền, Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun. Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu, Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong. Cảnh buồn người thiết tha lòng, Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.

(Tác giả: Đoàn Thị Điểm)

2.2 Bài thơ Cung Oán Ngâm Khúc

Đòi những kẻ thiên ma bách chiết Hình thì còn bụng chết đòi nau Thảo nào khi mới chôn nhau Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra! Khóc vì nỗi thiết tha sự thế Ai bày trò bãi bể nương dâu Trắng răng đến thuở bạc đầu Tử, sinh, kinh, cụ làm nau mấy lần.

Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc Lớp cùng thông như đúc buồng gan Bệnh trần đòi đoạ tâm toan Lửa cơ đốt ruột, dao hàn cắt da.

Gót danh lợi bùn pha sắc xám Mặt phong trần nắng rám mùi dâu Nghĩ thân phù thế mà đau Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê.

Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ Đường thế đồ gót rỗ kỳ khu Sóng cồn cửa bể nhấp nhô Chiếc thuyền bào ảnh lô xô mặt ghềnh.

Trẻ tạo hoá đành hanh quá ngán Chết đuối người trên cạn mà chơi Lò cừ nung nấu sự đời Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.

Đền vũ tạ nhện giăng cửa mốc Thú ca lâu dế khóc canh dài Đất bằng bỗng rấp chông gai Ai đem nhân ảnh nhuốm màu tà dương.

Mồi phú quý dữ làng xa mã Bả vinh hoa lừa gã công khanh Giấc Nam Kha khéo bất bình Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.

Sân đào lý mây lồng man mác Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng Cánh buồm bể hoạn mênh mang Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh.

Quyền họa phúc trời tranh mất cả Chút tiện nghi chẳng trả phần ai Cái quay búng sẵn lên trời Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.

Hình mộc thạch vàng kim ố cổ Sắc cầm ngư ủ vũ ê phong Tiêu điều nhân sự đã xong Sơn hà cũng ảo, côn trùng cũng hư.

Cầu thệ thuỷ ngồi trơ cổ độ Quán thu phong đứng rũ tà huy Phong trần đến cả sơn khê Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.

Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy Kiếp phù sinh trông thấy mà đau Trăm năm còn có gì đâu Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì.

(Tác giả: Nguyễn Gia Thiều)

2.3 Bài thơ Xuân Sầu (II)

Trăm hoa đua nở đẹp hơn cười Một cái oanh vàng uốn lưỡi chơi Phong cảnh chiều xuân vui vẻ thế Xuân sầu chi để bận riêng ai! Mười lăm năm trước xuân xanh Tri Tri cất tiếng, Hữu Thanh gọi đàn Tình nguyện vọng chứa chan non nước Bạn tri âm man mác giời mây Nở gan một cuộc cười say Đường xa coi nhẹ gánh đầy như không Phận nam nhi tang bồng là chí Chữ trượng phu ý khí nhường ai Non sông thề với hai vai Quyết đem bút sắt mà mài lòng son Dư đồ rách, nước non tô lại Đồng bào xa, trai gái kêu lên Doanh hoàn là cuộc đua chen Rồng Tiên phải giống ngu hèn, mà cam! Tiếng gọi bạn nửa năm vừa dứt Sức thua giời, trăm sức mà chi Tình duyên đến lúc phân ly Giang sơn bảng lảng, tu mi thẹn thùng Xếp ngọn bút, đau lòng son sắt Giã đàn văn, lánh mặt phong sương Cho hay trần luỵ đa mang Trăm năm duyên nợ văn chương còn nhiều Thuyền một lá buông liều sông nước Lái tám năm xuôi ngược dòng sông Nực cười trận gió đông phong Làm cho chú lái không công mất thuyền Ngồi nghĩ lại mối duyên sao lạ Dẫu kêu rằng món nợ cũng hay Trần hoàn trả trả vay vay Kể chi công nợ, cho rầy thanh tao Mừng xuân mới, rượu đào khuyên cạn Vắng tri âm mà bạn non xanh Gan vàng, tóc bạc, non xanh Thiên nhiên ai hoạ bức tranh xuân sầu?

(Tác giả: Tản Đà)

2.4 Bài thơ Khóc Dương Khuê

tho-song-that-luc-bat-voh-3

Bác Dương thôi đã thôi rồi, Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta. Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước, Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau; Kính yêu từ trước đến sau, Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời? Cũng có lúc chơi nơi dặm khách, Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo; Có khi từng gác cheo leo, Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang. Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp, Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân. Có khi bàn soạn câu văn, Biết bao đông bích, điển phần trước sau. Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn, Phận đẩu thăng chẳng dám tham trời; Bác già, tôi cũng già rồi, Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là! Muốn đi lại tuổi già thêm nhác, Trước ba năm gặp bác một lần; Cầm tay hỏi hết xa gần, Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can. Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác, Tôi lại đau trước bác mấy ngày; Làm sao bác vội về ngay, Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời. Ai chẳng biết chán đời là phải, Sao vội vàng đã mải lên tiên; Rượu ngon không có bạn hiền, Không mua không phải không tiền không mua. Câu thơ nghĩ đắn đo không viết, Viết đưa ai, ai biết mà đưa. Giường kia treo cũng hững hờ, Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn. Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở, Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương; Tuổi già hạt lệ như sương, Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan!

(Tác giả: Nguyễn Khuyến)

2.5 Bài thơ Ai Tư Vãn

Gió hiu hắt phòng tiêu lạnh lẽo Trước thềm lan, hoa héo ron ron. Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non, Xe rồng thăm thẳm, bóng loan dàu dàu.

Nỗi lai lịch dễ hầu than thở Trách nhân duyên mờ lỡ cớ sao ? Sầu sầu, thảm thảm xiết bao… Sầu đầy giạt bể, thảm cao ngất trời !

Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc, Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương. Rút dây vâng mệnh phụ hoàng, Thuyền lan chèo quế thuận đường vu quy.

Trăm ngàn dặm quản chi non nước; Chữ “nghi gia” mừng được phải duyên. Sang yêu muôn đội ơn trên, Rỡ ràng vẻ thúy, nối chen tiếng cầm.

Lượng che chở, vụng lầm nào kể. Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời. Dẫu rằng non nước biến dời, Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là.

Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội, Khắp tôn thân cùng đội ơn sang. Miếu đường còn dấu chưng thường, Tùng thu còn rậm mấy hàng xanh xanh.

Nhờ hồng phúc, đôi cành hòe quế Đượm hơi dương dây rễ cùng tươi Non Nam lần chúc tuổi trời, Dâng câu Thiên Bảo, bày lời Hoa Phong.

Những ao ước trập trùng tuổi hạc, Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui. Nào hay sông cạn, bể vùi, Lòng trời giáo giở, vận người biệt ly.

Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết, Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên. Xiết bao kinh sợ, lo phiền, Miếu thần đả đảo, thuốc tiên lại cầu.

Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước, Phương pháp nào đổi được cùng chăng ? Ngán thay, máy Tạo bất bằng, Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan.

Cuộc tụ, tán, bi, hoan kíp bấy, Kể sum vầy đã mấy năm nay ? Lênh đênh chút phận bèo mây, Duyên kia đã vậy, thân này nương đâu ?

Trằn trọc luống đêm thâu, ngày tối, Biết cậy ai dập nỗi bi thương ? Trông mong luống những mơ màng, Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say.

Khi trận gió hoa bay thấp thoáng, Ngỡ hương trời bãng bãng còn đâu: Vội vàng sửa áo lên chầu, Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện giăng.

Khi bóng trăng, lá in lấp lánh, Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi. Vội vàng dạo bước tới nơi, Thương ơi, vắng vẻ giữa trời tuyết sa !

Tưởng phong thể xót xa đòi đoạn, Mặt rồng sao cách gián lâu nay, Có ai chốn ấy về đây, Nguồn cơn xin ngỏ cho hay được đành ?

Nẻo u minh khéo chia đôi ngả, Nghĩ đòi phen, nồng nã đòi phen. Kiếp này chưa trọn chữ duyên, Ước xin kiếp khác vẹn tuyền lửa hương.

Nghe trước có đấng vương Thang, Võ, Công nghiệp nhiều tuổi thọ thêm cao; Mà nay áo vải cờ đào, Giúp dân dựng nước xiết bao công trình !

Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn, Công đức dày, ngự vận càng lâu; Mà nay lượng cả, ơn sâu, Móc mưa rưới khắp chín châu đượm nhuần.

Công dường ấy, mà nhân dường ấy, Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công ? Rộng cho chuộc được tuổi rồng, Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.

Buồn thay nhẽ, sương rơi gió lọt, Cảnh đìu hiu, thánh thót châu sa. Tưởng lời di chúc thiết tha, Khóc nào nên tiếng, thức mà cũng mê.

Buồn thay nhẽ, xuân về hoa ở, Mối sầu riêng ai gỡ cho xong, Quyết liều mong vẹn chữ tòng, Trên rường nào ngại giữa dòng nào e.

Con trứng nước thương vì đôi chút, Chữ tình thâm chưa thoát được đi, Vậy nên nấn ná đòi khi, Hình tuy còn ở, phách thì đã theo;

Theo buổi trước ngự đèo Bồng Đảo, Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân, Theo xa thôi lại theo gần, Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.

Đương theo bỗng tiếng gà sực tỉnh, Đau đớn thay ấy cảnh chiêm bao ! Mơ màng thêm nỗi khát khao, Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi ?

Tưởng thôi lại bồi hồi trong dạ, Nguyệt đồng sinh sao đã kíp phai ? Xưa sao sớm hỏi khuya bày, Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ.

Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ, Tình cô đơn, ai kẻ xét đâu ? Xưa sao gang tấc gần chầu, Trước sân phong nguyệt, trên lầu sính ca.

Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi, Tin hàn huyên khôn hỏi thăm nhanh. Nửa cung gãy phím cầm lành, Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ !

Nghĩ nông nỗi ngẩn ngơ đòi lúc, Tiếng tử quy thêm giục lòng thương. Não người thay, cảnh tiên hương, Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông.

Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược, Thấy mênh mông những nước cùng mây, Đông rồi thì lại trông tây: Thấy non cao ngất, thấy cây rườm rà.

Trông Nam thấy nhạn sa lác đác, Trông bắc thời ngàn bạc màu sương. Nọ trông trời đất bốn phương, Cõi tiên khơi thẳm, biết đường nào đi.

Cậy ai có phép gì tới đó, Dâng vật thường xin ngỏ lòng trung, Này gương là của Hán cung Ơn trên xưa đã soi chung đòi ngày.

Duyên hảo hợp xót rày nên lẽ, Bụng ai hoài vội ghẽ vì đâu ? Xin đưa gương ấy về chầu, Ngõ soi cho tỏ gót đầu trông ơn.

Tưởng linh sảng nhơn nhơn còn dấu, Nỗi sinh cơ có thấu cho không ? Cung xanh đang tuổi ấu xung Di mưu sao nỡ quên lòng đoái thương ?

Gót lân chỉ mấy hàng lẫm chẫm Đầu mũ mao, mình tấm áo gai, U ơ ra trước hương đài, Tưởng quang cảnh ấy chua cay lòng này.

Trong sáu viện ố đào, ủ liễu Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm nghê Long đong xa cách hương quê, Mong theo: lầm lối, mong về: tủi duyên.

Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ Cất chân tay thương khó xiết chi. Hang sâu nghe tiếng thương bi, Kẻ sơ còn thế, huống gì người thân.

Cảnh ly biệt nhiều phần bát ngát, Mạch sầu tuôn ai tát cho vơi ? Càng trông càng một xa vời, Tấc lòng thảm thiết, chín trời biết chăng ?

Buồn trông trăng, trăng mờ thêm tủi, Gương Hằng Nga đã bụi màu trong. Nhìn gương càng thẹn tấm lòng, Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà.

Buồn xem hoa, hoa buồn thêm thẹn, Cánh hải đường đã quyện giọt sương. Trông chim càng dễ đoạn trường Uyên ương chiếc bóng, phượng hoàng lẻ đôi.

Cảnh nào cũng ngùi ngùi cảnh ấy Tiệc vui mừng còn thấy chi đâu ? Phút giây bãi bể nương dâu, Cuộc đời là thế biết hầu nài sao ?

Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng, Nỗi đoạn trường còn sống còn đau. Mấy lời tâm sự trước sau, Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho.

(Tác giả: Lê Ngọc Hân)

2.6 Bài thơ Mãi Mãi

tho-song-that-luc-bat-voh-4

– Vâng, anh sẽ yêu em mãi mãi; Mãi mãi là trong những phút giây. Sắc hồng mãi mãi hôm nay, Hoa sim nở rộ cuồng say một đồi; Em nói nhỏ: “hỡi người yêu dấu, Hãy yêu em mãi mãi nghe anh?” Say xưa anh cũng dặn tình: “Yêu anh mãi mãi nghe! Mình yêu anh.” Hoa nửa buổi muốn thành vạn thuở, Lòng một đời tính độ ngàn năm; Sông trôi núi lở âm thầm, Đường đi vũ trụ có cầm được đâu! Nhưng ta sẽ yêu nhau mãi mãi, Mãi mãi là trong những phút giây; Lâu dài là bóng, là mây, Là môi kỳ ngộ, là tay hảo cầu. Mãi mãi ở trong câu hò hẹn, Mãi mãi trong ý nguyện bình sinh; Thời gian không phải của mình, Tình chỉ mãi mãi bằng tình tháng năm? Vâng, anh sẽ yêu em mãi mãi, Trong phút giây ân ái muôn đời. Mai kia dù có rẽ rời, Đôi ta đã mãi mãi ngồi bên nhau.

(Tác giả: Xuân Diệu)

Xem thêm: Thơ Xuân Diệu – Một trong những trang thơ đong đầy cảm xúc

3. Thơ song thất lục bát ý nghĩa

Những bài thơ song thất lục bát khiến không chỉ đong đầy cảm xúc, mà còn mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Mỗi dòng thơ như tiếng lòng từ chính tác giả, chạm đến trái tim hàng triệu độc giả mến mộ thơ ca Việt trong suốt mấy mươi năm.

3.1 Bài thơ Đêm Khuya Tự Tình Với Sông Hương

Bây giờ chỉ có đôi ta Bao nhiêu tâm sự Hằng Nga biết rồi Thuở nước non đến hồi non nước Sông Hương đành xuôi ngược đông tây Soi lòng chỉ có đám mây Đám mây phú quý những ngày lao đao Sao mặt sông xanh xao ra dáng Sao tình sông lai láng khôn ngăn? Vì ai lắm nỗi chứa chan Hay còn đợi khách quá giang một lần Này thử hỏi, thuyền nan thả lá Thuyền ai đây nấn ná bấy lâu? Mặc ai khanh tướng công hầu Không thèm chung đỉnh, lưng bầu gió trăng Sao trời đất đãi đằng ra thế? Sao mưa nguồn chớp bể luôn đêm? Trong thành yến ấm vui thêm Tiếng ca lanh lảnh lọt rèm rèm thưa Sông Hương hỡi, xuân vừa tơ liễu Cả trăm hoa hàm tiếu nhởn nhơ Vì đâu nước chảy lững lờ Hay cho thế sự cuộc cờ chiêm bao Ghét xa mã nao nao uốn khúc Giận thời gian những lứa xuân xanh Nhà ai khiêu vũ năm canh Hơi men sực nức dưới thành đô xưa Sao tức tối trôi bừa đi mãi Chẳng buồn nghe cô lái thở than “Thuyền em đậu bến Hương Giang Chờ người quân tử lỡ làng tình duyên” Thuyền lặng lẽ nằm yên với bóng Nước sống xuôi dợn sóng bến thuyền Trong thành ngủ chết con đen Khoá xuân bỏ lỏng đến then chẳng gài Hãy trông thử đền đài dinh thự Dấu xưa, xưa tình tứ làm sao Ô hay! Sóng chảy dạt dào Chiếc thuyền vô định tạc vào bến mê Sao trai gái đi về trong mộng Mà sông Hương chẳng động niềm riêng Trong thành để lạnh hương nguyền Tiếng gà gáy nguyệt láng giềng còn say.

(Tác giả: Hàn Mặc Tử)

3.2 Bài thơ Thuyền neo bến đậu

Em nhớ mãi chiều thu lá đổ Mình bên nhau cạn tỏ nguồn cơn Chạnh lòng anh vọng lời thương Xa xa vẳng tiếng nghe dường nỉ non Anh khắc khoải lòng son giữ mãi Đời biển dâu xa xót tình đau Lời anh nghe thấm từng câu Người như ôm cả nỗi sầu thế nhân Hai ta cứ tần ngần nuối tiếc Một đời em tha thiết từng mơ Nào ai học được chữ ngờ Gối chăn hờ hững sương mờ phủ giăng Anh chốn ấy! Mộng nay đã hết Em ngồi đây lặng chết từng giây Một mình trăn trở đêm nay Biết ai hiểu thấu đắng cay chuyện lòng Xuân trở giấc hoa không muốn trổ Ngại ngần lo sầu khổ bao mùa Thôi đành duyên kiếp đẩy đưa Thuyền neo bến hẹn gió mùa lắt lay Tình chợt đến, chợt đi, ai biết Đường vào tim khôn xiết bẽ bàng Chòng chành với chiếc đò ngang Mai sau biết có vẹn toàn được chăng.

(Tác giả: Hoàng Mai)

3.2 Bài thơ Bà Má Hậu Giang

tho-song-that-luc-bat-voh-5

Trời Hậu Giang, tù và dậy rúc Phèn la kêu, trống giục vang đồng Đường quê đỏ rực cờ hồng Giáo gươm sáng đất, tầm vông nhọn trời Quyết một trận, quét đời nô lệ Quăng máu xương, phá bẻ xiềng gông!

Hỡi ôi! Việc chửa thành công Hôm nay máu chảy đỏ đồng Hậu Giang Giặc lùng, giặc đốt xóm làng Xác xơ cây cỏ, tan hoang cửa nhà Một vùng trắng bãi tha ma Lặng im, không một tiếng gà gáy trưa.

Có ai biết, ai ngờ trong đó Còn chơ vơ một ổ lều con Đạn bom qua, hãy sống còn Núp sau lưng rộng một hòn đá to. Có ai biết trong tro còn lửa Một má già lần lữa không đi Ở đây sóng gió bất kỳ Má ơi, má ở làm chi một mình? Rừng một dải U Minh tối sớm Má lom khom đi lượm củi khô Ngày đêm củi chất bên lò Ai hay má cất củi khô làm gì? Hay má lẫn quên vì tuổi tác Hay má liều một thác cho yên?

Bỗng đâu một buổi mai lên Trên đường quê ấy, qua miền nghĩa quân Một toán quỷ rầm rầm rộ rộ Mắt mèo hoang, mũi chó, râu dê Súng trường nhọn hoắt lưỡi lê Khét nồng khí chết, tanh dề máu oan! Chúng rảo bước. Lính quan nện gót Mắt nhìn quanh lục mót dạng người Đồng không, lạnh vắng, im hơi Chỉ đôi bóng quạ ngang trời loáng qua Ách-là! Thằng quan ba dừng bước Rút ống dòm, và ngước mắt nheo Xa xa, sau lớp nhà xiêu Một tia khói nhỏ ngoằn ngoèo bay lên… Hắn khoái trá cười điên sằng sặc Nhe hàm răng sáng quắc như gươm Vẫy tay lũ tớ gườm gườm Như bầy chó đói chực chồm miếng ăn. Rồi lặng lặng bước chân hùm sói Tiến dần lên tia khói, vây quanh…

Má già trong túp lều tranh Ngồi bên bếp lửa, đun cành củi khô Một mình má, một nồi to Cơm vừa chín tới, vùi tro, má cười… Chết! Có tiếng gì rơi sột soạt? Má già run, trán toát mồ hôi Chạy đâu? Thôi chết, chết rồi! Gót giày đâu đã đạp rơi liếp mành. Một thằng cướp, mắt xanh mũi lõ Đốc gươm dài tuốt vỏ cầm tay Rung rinh bậc cửa tre gầy Nghênh ngang một ống chân đầy lối đi!

Hắn rướn cổ, giương mi, trơn mắt Như hổ mang chợt bắt được mồi Trừng trừng trông ngược trông xuôi Trông vào bếp lửa: Một nồi cơm to. Hắn rống hét: “Con bò cái chết! Một mình mày ăn hết này sao? Đừng hòng che được mắt tao Khai mau, du kích ra vào nơi đâu? Khai mau, tao chém mất đầu!” Má già lẩy bẩy như tàu chuối khô Má ngã xuống bên lò bếp đỏ Thằng giặc kia đứng ngõ trừng trừng Má già nhắm mắt, rưng rưng “Các con ơi, ở trong rừng U Minh Má có chết, một mình má chết Cho các con trừ hết quân Tây!” Thằng kia bỗng giậm gót giày Đạp lên đầu má: “Mẹ mày, nói không?” Lưỡi gươm lạnh toát kề hông “Các con ơi! Má quyết không khai nào!” Sức đâu như ngọn sóng trào Má già đứng dậy, ngó vào thằng Tây Má hét lớn: “Tụi bay đồ chó! Cướp nước tao, cắt cổ dân tao! Tao già không sức cầm dao Giết bay, có các con tao trăm vùng! Con tao, gan dạ anh hùng Như rừng đước mạnh, như rừng chàm thơm! Thân tao chết, dạ chẳng sờn!” Thương ôi! Lời má lưỡi gươm cắt rồi! Một dòng máu đỏ lên trời Má ơi, con đã nghe lời má kêu! Nước non muôn quỷ ngàn yêu Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang.

(Tác giả: Tố Hữu)

3.3 Bài thơ Hai Chữ Nước Nhà

Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu Bốn bề hổ thét chim kêu Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình

Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước Chút thân tàn lần bước dặm khơi Trông con tầm tã châu rơi Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:

Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay Trời Nam riêng một cõi này Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì!

Than vận nước gặp khi biến đổi Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng Bốn phương khói lửa bừng bừng Xiết bao thảm hoạ xương rừng máu sông!

Nơi đô thị thành tung quách vỡ Chốn dân gian bỏ vợ lìa con Làm cho xiêu tán hao mòn Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!

Thảm vong quốc kể sao cho xiết Trông cơ đồ nhường xé tâm can Ngậm ngùi khóc đất giời than Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!

Khói Nùng lĩnh như xây khối uất Sóng Long giang nhường vật cơn sầu Con ơi! càng nói càng đau… Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?

Cha xót phận tuổi già sức yếu Lỡ sa cơ đành chịu bó tay Thân lươn bao quản vũng lầy Giang sơn gánh vác sau này cậy con

Con nên nhớ tổ tông khi trước Đã từng phen vì nước gian lao Bắc Nam bờ cõi phân mao Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây

Kìa Trưng nữ ra tay buồm lái Phận liễu bồ xoay với cuồng phong Giết giặc nước, trả thù chồng Nghìn thu tiếng nữ anh hùng còn ghi

Kìa Hưng Đạo gặp khi quốc biến Vì giống nòi quyết chiến bao phen Sông Bạch Đằng phá quân Nguyên Gươm reo chính khí nước rền dư uy

Coi lịch sử gươm kia còn tỏ Mở dư đồ đất nọ chưa tan Giang san này vẫn giang san Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai?

Con nay cũng một người trong nước Phải nhắc câu Gia, Quốc đôi đường Làm trai hồ thỉ bốn phương Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng

Thời thế có anh hùng là thế Chữ vinh hoa xá kể làm chi! Mấy trang hào kiệt xưa kia Hy sinh thân thế cũng vì nước non

Con đương độ đầu xanh tuổi trẻ Bước cạnh tranh há dễ nhường ai? Phải nên thương lấy giống nòi Đừng tham phú quý mà nguôi tấc lòng

Kiếp luồn cúi, đỉnh chung cũng nhục; Thân tự do chiên chúc mà vinh Con ơi nhớ đức sinh thành Sao cho khỏi để ô danh với đời

Chớ lần lữa theo loài nô lệ Bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai Đem thân đầy đọa tôi đòi Nhục nhằn bêu riếu muôn đời hay chi?

Sống như thế, sống đê, sống mạt Sống làm chi thêm chật non sông! Thà rằng chết quách cho xong Cái thân cẩu trệ ai mong có mình!

Huống con cũng học hành khôn biết Làm giống người phải xét nông sâu Tuồng chi gục mặt cúi đầu Cam tâm làm kiếp ngựa trâu cho đành!

Nỗi tâm sự đinh ninh dường ấy Cha khuyên con có bấy nhiêu lời Con ơi! con phải là người Thì con theo lấy những lời cha khuyên

Cha nay đã muôn nghìn bi thảm Nói bao nhiêu tâm khảm càng đau! Chân mây mặt cỏ rầu rầu Càng trông cố quốc mạch sầu càng thương!

Lời cha dặn khắc xương để dạ Mấy gian lao con chớ sai nguyền Tuốt gươm thề với vương thiên Phải đem tâm huyết mà đền cao sâu

Gan tráng sĩ vững sau như trước Chí nam nhi lấy nước làm nhà Tấm thân xẻ với san hà Tượng đồng bia đá hoạ là cam công

Nữa mai mốt giết xong thù nghịch Mũi long tuyền lau sạch màu tanh Làm cho đất rộng trời kinh Bấy giờ quốc hiển gia vinh có ngày!

Nghĩa vụ đó con hay chăng tá? Tính toán sao vẹn cả đôi đường Cha dù đất lạ gởi xương Trông về cố quốc khỏi thương hồn già

Con ơi! Hai chữ nước nhà!

(Tác giả: Trần Tuấn Khải)

3.4 Chuyện Tình Không Đoạn Kết

Người tìm đến một chiều đông giá Khi đời em lòng dạ ngổn ngang Duyên đầu vội sớm ly tan Anh đem nắng ấm… chứa chan xuân về Qua rồi tuổi đam mê tình ái Em và người gặp lại là duyên Nửa vòng trái đất mỗi đêm Xa xôi cách trở nỗi niềm tỏ phân Dòng thư tỏ thu dần khoảng cách Người và em dằng dặc đêm trường Cánh chim bạt gió tha hương Trái tim vết khắc một đường hằn sâu Dòng tâm sự đớn đau thân xác Nỗi đoạn trường than trách ai đây Tỏ tường bao nỗi đắng cay Trời cao có thấu lòng này hay chăng Người gọi ta hồng nhan tri kỷ Ta gọi người thủ thỉ tình quân Mỗi năm vào dịp nghinh tân Cùng nhau dạo Hội hoa xuân quê nhà Thấm thoát sáu năm dài ròng rã Luôn ưu tư tấc dạ u hoài Cớ chi duyên ngắn tình dài Trách sao Tạo Hóa đọa đày hồng nhan

(Tác giả: Hoàng Mai)

3.5 Bài thơ Nhớ Ơn Cha Mẹ

tho-song-that-luc-bat-voh-6

Ngày tháng bảy mưa rơi lướt thướt Chạnh lòng con sướt mướt canh thâu Mẹ cha giờ khuất nơi đâu Dương gian hay cõi thâm sâu ngút ngàn Đêm trở gió bàng hoàng tỉnh giấc Nhớ công ơn chất ngất lòng đau Mẹ cha khuất bóng đã lâu Con chưa đền đáp ơn sâu cửu trùng Nhớ cái thuở bần cùng cạn kiệt Cha đảm đương mải miết vườn rau Cơm canh khoai sắn bên nhau Chắt chiu ngày tháng mong cầu vươn lên Thời gian vững lòng bền cha bước Lên tỉnh thành sau trước lo toan Đàn con sâm sấp hiền ngoan Mẹ thay cha dạy bảo ban con khờ Rồi đến lúc con thơ đã lớn Bỏ mẹ cha về chốn phồn hoa Đứa an phận đứa bôn ba Xót xa con trẻ lệ nhòa đêm thâu Khi con đã bắt đầu ổn định Thì mẹ cha thân tịnh bất an Mẹ đi về chốn mây ngàn Cha thương nhớ mẹ võ vàng theo sau Con chưa kịp ơn sâu đền đáp Chỉ mong sao Phật Pháp nhiệm màu Mẹ cha thoát cảnh khổ đau… Luân hồi sanh tử nguyện cầu vãng sanh

(Tác giả: Hoàng Mai)

Xem thêm: Thơ ngũ ngôn là gì? Top 32 bài thơ ngũ ngôn hay nhất

4. Thơ song thất lục bát ngắn hay nhất

Sau đây là những bài thơ Thơ song thất lục bát ngắn hay nhất, hy vọng bạn sẽ bắt gặp hình ảnh của chính mình trong từng vần thơ. Cùng đọc và suy ngẫm ngay dưới đây nhé!

4.1 Bài thơ Đôi Mắt

Có hoa nào qua mùa không héo? Có tiếng nào giàu đẹp hơn không? Mắt em là một dòng sông Thuyền anh bơi lội giữa dòng mắt em. Đàn “nguyệt dạ” hương đêm bay lạc Gì buồn hơn tiếng vạc lưng chừng? Phép gì khỏi nhớ đừng trông Mắt em bỏ túi, vắng lòng đem soi.

(Tác giả: Lưu Trọng Lư)

4.2 Bài thơ Tiếng Đàn Mưa

tho-song-that-luc-bat-voh-7

Mưa hoa rụng, mưa hoa xuân rụng Mưa xuống lầu, mưa xuống thềm lan Mưa rơi ngoài nẻo dặm ngàn Nước non rả rích giọng đàn mưa xuân. Lầu mưa xuống, thêm lan mưa xuống Cùng nước non hoa rụng mưa xuân Mưa rơi ngoài nội trên ngàn Nghe trong ý khách giọt đàn mưa rơi. Đầm mưa xuống nẻo đồi mưa xuống Bóng dương tà rụng bóng tà dương Hoa xuân rơi với bóng dương Mưa trong ý khách mưa cùng nước non. Rơi hoa kết mưa còn rả rích Càng mưa rơi cánh tịch bóng dương Bóng dương với khách tha hương Mưa trong ý khách muôn hàng lệ rơi.

(Tác giả: Bích Khê)

4.4 Bài thơ Dấu Tình Sâu

Chiều vương vạt nắng hững hờ Gió mang nỗi nhớ đợi chờ hanh hao Trời giăng mây tím trên cao Chợt nghe lá khóc dạt dào trên mi. Lệ sầu để gió mang đi Lá rơi ngập dấu tình si hao gầy Bên đường mơ bóng hàng cây Người ơi còn nhớ mãi, hay quên lời. Người tìm đến mơ hồ giọng hát Lời ru buồn man mác con tim Chiều thu để gió đi tìm Đường lên che vết thương yêu nồng nàn. Tuổi buồn dấu cho đàn dâng tiếng Vết tình sầu đưa tiễn người xưa Cho hồn băng giá chiều mưa Lời ru đan ngón tay vừa hôm nao. Giận hờn ngập lối vào hoang vắng Môi ươm sầu giọt nắng hắt hiu Em qua vết bước bao chiều Tuổi gầy màu mắt yêu kiều vương mang. Từ khi gió địa đàng mang dấu Gợi nỗi hờn người giấu tim đau Chiều lên đỉnh núi ngang đầu Nhặt thương cho gót dâng sầu hoen mi.

(Tác giả: Tâm Minh)

4.5 Bài thơ Người Mang Tâm Sự

Trời hôm nay chợt mưa chợt nắng Tiễn người đi bến vắng đò chiều Nghe hồn thổn thức cô liêu Ta còn có biết bao điều trong nhau Chim lẻ bạn âu sầu muôn lối Lòng bao năm tăm tối não nề Qua rồi một thoáng đam mê Tóc xanh giờ đã mây che phủ đầu Chân đếm bước dòng sầu nhạt nắng Lòng bâng khuâng ngõ vắng thưa người Đường trần chỉ một mình tôi Trời cao sao nỡ tách đôi duyên mình… Anh trở gót hành trình đếm bước Trời vào Thu sướt mướt tình ngâu Sóng giăng bủa bến giang đầu Chiều nay hồn có trái sầu vừa rơi

(Tác giả: Hoàng Mai)

Mong rằng, thông qua những bài thơ song thất lục bát về chủ đề về quê hương đất nước, về tình cha mẹ, hay tình yêu đôi lứa, để bạn thêm yêu những nét đẹp trong nền văn hóa – nghệ thuật Việt Nam.

Sưu tầm Nguồn ảnh: Internet