Rối loạn ngôn ngữ là gì? Phân loại rối loạn ngôn ngữ | Vinmec

2.2 Rối loạn ngôn ngữ vận động xuyên vỏ

Người bị rối loạn ngôn ngữ vận động xuyên vỏ vẫn có khả năng thông hiểu tốt và lặp lại tốt nhưng không diễn tả ngôn ngữ lưu loát được. Biểu hiện điển hình là bệnh nhân thay đổi cách phát âm và giai điệu lời nói trở nên lộn xộn.

Vị trí tổn thương trong rối loạn ngôn ngữ vận động xuyên vỏ có thể nằm bất cứ đâu trên thùy trán bên trái.

2.3 Rối loạn ngôn ngữ cảm giác xuyên vỏ

Ngược lại với rối loạn ngôn ngữ vận động xuyên vỏ, trong rối loạn ngôn ngữ cảm giác xuyên vỏ, đặc trưng của lời nói là vẫn giữ được tính lưu loát tốt, lặp lại tốt trong khi thông hiểu lại giảm. Cụ thể là người bệnh vẫn có thể nói ra những câu dài rõ ràng, đúng ngữ pháp, trôi chảy nhưng lại không tương xứng với câu hỏi.

Rối loạn ngôn ngữ cảm giác xuyên vỏ có vị trí tổn thương là tại chỗ nối thái dương – đỉnh – chẩm phía sau hồi thái dương trên và có thể chồng chéo lên vùng sang thương của rối loạn ngôn ngữ Wernicke.

2.4 Rối loạn ngôn ngữ xuyên vỏ hỗn hợp

Sự phối hợp của cả hai rối loạn ngôn ngữ vận động xuyên vỏ và rối loạn ngôn ngữ cảm giác xuyên vỏ là rối loạn ngôn ngữ xuyên vỏ hỗn hợp. Trong đó, người bệnh vừa mắc phải giảm lưu loát và giảm thông hiểu trong khi khả năng lặp lại vẫn còn tốt. Cụ thể là bệnh nhân chỉ nói được những lời tự phát, các câu ngắn là có khuynh hướng lặp đi lại lại như cũ khi được đặt câu hỏi.

Sang thương của rối loạn ngôn ngữ xuyên vỏ hỗn hợp là bao gồm cả vùng vận động và cảm giác, tức là cả vùng trán sau bên trước vỏ não vận động và chỗ nối thái dương đỉnh chẩm.

2.6 Rối loạn ngôn ngữ Wernicke

Rối loạn ngôn ngữ Wernicke còn gọi là rối loạn ngôn ngữ cảm giác và trái ngược với rối loạn ngôn ngữ Broca là do tổn thương vận động. Điển hình là người bệnh vẫn tự thể hiện bằng lời nói lưu loát với các câu nói dài, trơn tru, đúng ngữ pháp; cách phát âm và nhịp điệu lời nói vẫn bình thường. Tuy nhiên, khả năng nghe hiểu và làm đúng yêu cầu hay trả lời đúng câu hỏi lại kém.

Vị trí của tổn thương gây rối loạn ngôn ngữ Wernicke là một vùng rộng lớn ở vùng thái dương trên sau.

2.7 Rối loạn ngôn ngữ dẫn truyền

Rối loạn ngôn ngữ dẫn truyền chỉ gây khiếm khuyết khả năng lặp lại trong khi khả năng thông hiểu và lưu loát vẫn còn tốt. Theo đó, bệnh nhân vẫn trả lời đúng các câu hỏi bằng những câu nói dài, lưu loát. Tuy nhiên, khi yêu cầu bệnh nhân lặp lại một câu nói hay kể lại câu chuyện, đọc chữ thành tiếng thì lời nói lại trở nên lộn xộn và có hiện tượng thay thế chữ.

Sang thương gây bệnh trong rối loạn ngôn ngữ dẫn truyền chỉ nằm khu trú ở tiểu thùy đỉnh dưới trái.

2.8 Rối loạn ngôn ngữ toàn bộ

Rối loạn ngôn ngữ toàn bộ là thể nặng nề nhất trong các loại rối loạn ngôn ngữ. Người bệnh bị mất tất cả các chức năng nói một cách trầm trọng, bao gồm cả chức năng ngôn ngữ vận động và ngôn ngữ cảm giác.

Tổn thương não trong rối loạn ngôn ngữ toàn bộ thường là một vùng lớn tại trung tâm nói ở vùng trước và sau rãnh vỏ não Rolando. Nguyên nhân thường là do nhồi máu não toàn bộ động mạch não giữa bán cầu ưu thế.