Những tấm gương tự học nổi tiếng ở Việt Nam

Trong quá khứ và hiện tại, dân tộc Việt Nam đã có nhiều danh nhân nổi tiếng về tài năng và học vấn ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Dưới đây là một số ví dụ về những người tự học mà chắc chắn bạn đã từng nghe đến.

Tinh thần tự học là gì?

Tinh thần tự học là ý thức tự rèn luyện tích cực để nắm bắt kiến thức và phát triển kỹ năng cho bản thân. Tinh thần tự học bắt nguồn từ lòng khao khát hiểu biết, sẵn lòng học hỏi trong mọi lĩnh vực mà không ngại khó khăn hay gian khổ.

Quá trình tự học có phạm vi rộng, bao gồm nghe giảng, ghi chép, đọc sách, làm bài tập. Để rút ra những điều hữu ích cho bản thân, ta cần suy nghĩ sáng tạo. Tự học có nhiều hình thức, từ việc tự mày mò tìm hiểu đến có sự chỉ bảo, hướng dẫn từ thầy cô giáo. Dù hình thức nào, sự chủ động trong việc tiếp nhận tri thức vẫn là điều quan trọng nhất.

Từ xa xưa, việc học hành đã trở thành một truyền thống đáng trân trọng trong dân tộc chúng ta. Dưới đây là một số ví dụ về những người nổi tiếng với tinh thần tự học của Việt Nam từ thời xưa đến nay.

Mạc Đĩnh Chi

Mạc Đĩnh Chi là một trong những trạng nguyên nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam với câu chuyện vượt khó để thành công trong học tập. Từ nhỏ, Mạc Đĩnh Chi được cho là thông minh và nhanh nhẹn. Tuy nhiên, gia đình cậu ấy lại khó khăn và đen đủi, cùng với ngoại hình không được đẹp.

Hàng ngày, khi tất cả các bạn nhỏ khác đều đi học, cậu phải vào rừng tìm củi vì gia đình cậu nghèo không đủ tiền cho việc học. Tuy nhiên, với niềm đam mê học hỏi, Mạc Đỉnh Chi thường ghé qua lớp học của thầy đồ trong làng và đứng ngoài cửa sổ lắng nghe thầy giảng bài để học theo. Sau một thời gian dài, thầy đồ thấy lòng tốt nên đã cho cậu vào lớp để học cùng các bạn. Mạc Đỉnh Chi rất hạnh phúc vì được học cùng các bạn, nhưng ban ngày cậu vẫn phải đi kiếm sống và chỉ có thể học vào buổi tối.

Vì gia đình nghèo, không có đủ đèn dầu để học, cậu bé liền nghĩ ra cách đặc biệt: bỏ đom đóm vào vỏ trứng để lấy ánh sáng làm đèn, và viết bằng lá thay vì giấy. Với ý chí học tập phi thường, vào khoa thi Giáp Thìn (1304), Mạc Đĩnh Chi trúng tuyển Hội nguyên, sau đó tiếp tục trúng tuyển Trạng nguyên. Không chỉ làm Trạng nguyên Đại Việt, Mạc Đĩnh Chi còn được phong là “Lưỡng quốc Trạng nguyên” (Trung Hoa và Đại Việt) khi sang Trung Quốc thời nhà Nguyên.

tấm gương tự họcChủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương tự học nổi tiếng ở Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh ra đời vào năm 1890 tại làng Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Ông là một người lãnh đạo xuất sắc, được biết đến với việc tự học và làm việc chăm chỉ, sử dụng tự học như một phương pháp chính để nâng cao kiến thức và kỹ năng của bản thân. Điểm quan trọng trong tư tưởng của ông là khuyến khích mọi người tự học và không ngừng học tập suốt đời.

Bằng tấm gương hiếu học vượt khó, Bác để lại cho chúng ta nhiều bài học và chỉ dẫn quý báu về tự học. Trong đó, có nhiều nội dung cơ bản mà chúng ta cần học và theo kịp Bác. Tự học mang ý nghĩa và là yếu tố quan trọng trong quá trình tiếp thu tri thức của con người. Trong những năm tháng lưu trú ở nước ngoài, Bác đã đến khắp các nước và lãnh thổ như Anh, Pháp, Nga… Dù làm bồi bếp trên tàu biển, đốt lò hay quét tuyết, Bác luôn tận dụng mọi cơ hội để tự học.

Bên cạnh đó, Bác cũng tới thư viện để đọc sách hoặc tham gia những buổi nói chuyện để nâng cao kiến thức. Buổi tối, Bác tham gia các mít tinh để gặp gỡ các nhà hoạt động chính trị và mở rộng hiểu biết của mình. Có thể nói, cuộc sống lao động khó khăn đã đẩy Bác đến quyết tâm tự học một cách kiên trì. Bác là tấm gương nổi tiếng về việc tự học và vượt qua mọi khó khăn, mà chúng ta cần học tập.

Nguyễn Ngọc Ký

Nguyễn Ngọc Ký là một nhà giáo ưu tú tại Việt Nam, được biết đến với nghị lực phi thường vượt qua khó khăn trong số phận. Từ khi còn rất nhỏ, ông đã mắc một căn bệnh và mất đi khả năng sử dụng cả hai tay. Tuy nhiên, ông đã không chấp nhận thua cuộc và đã rèn luyện đôi chân để thay thế cho bàn tay, để tiếp tục học tập và làm mọi việc. Nhờ những nỗ lực không ngừng, ông đã trở thành một nhà giáo ưu tú và lập kỷ lục cho Việt Nam là “Nhà văn đầu tiên viết bằng chân”. Câu chuyện phi thường này đã được ghi lại và truyền miệng với cái tên “Bàn chân kỳ diệu”.

Khi Ký lên 4 tuổi, anh ấy bị mất khả năng sử dụng cả hai cánh tay do một cơn bệnh nghiêm trọng. Dù rất mong muốn được đi học như những đứa trẻ cùng tuổi, nhưng do bệnh tật anh không thể tham gia vào môi trường học tập. Một lần, Ký đã tìm cách đến trường và đứng ngoài lớp nghe cô giáo giảng bài và quan sát các bạn học. Sau đó, anh bắt đầu tập viết bằng chân. Ban đầu, việc này rất khó khăn và gian truân, nhưng dần dần Ký đã có thể viết được các chữ cái như O, A, V… Không chỉ vậy, anh còn có khả năng vẽ bằng thước và compa, và làm lồng chim để chơi. Nhờ sự nỗ lực đáng kinh ngạc đó, Ký đã có thể đi học và đạt kết quả học tập xuất sắc.

Dù gặp nhiều khó khăn, Ký không ngừng rèn việc viết bằng chân và làm việc nhà bằng chính đôi chân của mình. Nhờ sự kiên trì và nỗ lực, vào năm 1962, Nguyễn Ngọc Ký đã được Bác Hồ tặng Huy hiệu đặc biệt. Năm 1963, Ký tham gia kỳ thi học sinh giỏi Toán cấp quốc gia và đạt vị trí thứ 5 xuất sắc. Lần thứ hai, cậu lại được Bác Hồ tặng Huy hiệu cao quý.

Năm 1966, sau khi hoàn thành khóa học Ngữ văn tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông đã trở thành sinh viên chuyên ngành này. Trong suốt 4 năm học đại học, mặc dù đối mặt với nguy cơ mất mạng do bệnh tật, nhưng Nguyễn Ngọc Ký không ngừng đọc sách để thu thập kiến thức. Sau khi tốt nghiệp, ông quay trở về quê hương và trở thành một giáo viên. Để có thể dạy bài với đôi tay bất lợi, thầy Ký đã nỗ lực tìm hiểu và áp dụng nhiều phương pháp và cách thức giảng dạy độc đáo và hiệu quả.

Nguyễn Khuyến

Trong lịch sử văn học Việt Nam, có một học sinh nghèo với lòng ham học đã đỗ đầu ba kỳ thi, đó là cụ Nguyễn Khuyến (1835 – 1909). Từ khi còn nhỏ, Nguyễn Khuyến đã nghe cha mình dạy các bài thơ cho các anh khóa trên, và anh ta thuộc lòng từng bài. Cha của Nguyễn Khuyến thấy con trí nhớ tốt và ham học, nên đã tạo điều kiện cho con học sớm hơn bạn bè. Ông đã mua giấy và bút để cậu học tập, không cần viết lên gạch non hay sàn nhà nữa.

Từ đó, Nguyễn Khuyến rất vui mừng và hàng ngày tận hưởng việc học. Cậu quên ăn, quên ngủ và có thể học thuộc cả một đống sách trong một ngày. Tuy nhiên, hoàn cảnh gia đình khó khăn chỉ cho phép cậu học vào ban ngày, vì buổi tối thiếu ánh sáng. Với lòng hiếu học, cậu đã nghĩ ra cách đọc sách dưới ánh trăng. Tuy nhiên, ánh trăng không luôn tỏ rõ, nên trong một buổi học dưới ánh trăng, cậu đã nảy ra ý định đốt lá để tạo ánh sáng để đọc sách. Vì lòng ham học hỏi, Nguyễn Khuyến đã vượt qua khó khăn và thành công nhờ việc học tập.

tấm gương tự họcTấm gương tự học nổi tiếng ở Việt Nam

Lương Thế Vinh

Lương Thế Vinh là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Với trí tuệ sáng bright và lòng ham học, ông đã khám phá và thu nhặt được nhiều kiến thức đáng kinh ngạc. Không chỉ vậy, Lương Thế Vinh còn là một đứa trẻ sáng tạo và năng động, đã sáng chế ra nhiều trò chơi thú vị để giải trí cho các bạn nhỏ trong làng. Ví dụ như trò thả diều, câu cá, bắt chim hay chơi bóng với quả bưởi. Cùng các bạn, cậu không chỉ hưởng thụ niềm vui mà còn học hỏi nhiều điều bổ ích.

Khi mới 20 tuổi, ông đã có kiến thức uyên bác và trở thành một nhân vật nổi tiếng trong vùng. Vào năm 1463, Lương Thế Vinh đã đỗ trạng nguyên khoa thi Quý Mùi và được vua tin tưởng giao trọng trách soạn thảo văn từ về bang giao và đón tiếp sứ thần từ nước ngoài. Với tính ham học hỏi bẩm sinh của mình, ông đã tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau, từ đó tích lũy được kiến thức sâu rộng và trở thành một nhà học giả toàn diện. Ông đã dạy cho người đương thời về phép cộng chia (tính nhân) và cách biến đổi từ phép nhân sang phép lập phương, cũng như hệ thống đo lường đương thời (tiền, vải, thóc, gạo…) Và phương pháp đo chiều cao của cây bằng cách đo bóng. Ngoài ra, ông còn giảng dạy về toán đạc điền để đo đạc diện tích ruộng đất.

Nguyễn Hiền

Nguyễn Hiền là người trạng nguyên đầu tiên và tuổi trẻ nhất trong lịch sử đất nước chúng ta. Với những thành tựu đáng ngưỡng mộ, ông đã thu hút sự ngưỡng mộ với lòng ham học của mình. Thời thơ ấu của Nguyễn Hiền cũng vô cùng khó khăn khi ông mất cha sớm và phải sống cùng mẹ trong một ngôi chùa.

Với khả năng thông minh từ trời ban, Nguyễn Hiền, với chỉ 12 tuổi, đã vượt trội hơn các bạn cùng trang lứa và thậm chí còn giỏi hơn cả các đàn anh khóa trên. Cậu luôn đam mê tìm hiểu và học hỏi, thường tham gia nhiều lớp học để tiếp cận với kiến thức và sách vở. Vì vậy, cậu có kiến thức uyên bác và rộng lớn, luôn đáp trả thông minh và sắc sảo hơn tuổi của mình, khiến người khác kinh ngạc và gọi cậu là “thần đồng”. Năm 1247, khi mới tròn 12 tuổi, Nguyễn Hiền đã thi đậu Trạng Nguyên, trở thành Trạng Nguyên trẻ nhất trong lịch sử Việt Nam.

Tổng hợp.