TS. Nguyễn Ngọc Thơ là một hoạt động như một công cụ rewrite tiếng Việt, viết lại đoạn văn để tạo ra một phiên bản sáng tạo hơn.
Châu Mỹ, được biết đến từ thế kỷ XV – XVI Tây lịch, là châu lục Tân thế giới. Tuy nhiên, châu Mỹ không chỉ là châu lục mới mà đã có nền văn minh phát triển từ trước đó. Khoa học hiện đại đã khám phá ra những bí mật của những nền văn minh cổ đại ở châu Mỹ, đặc biệt là ở Trung Mỹ và Nam Mỹ. Trước tiên, chúng ta sẽ tìm hiểu về nền văn minh tiêu biểu của Trung Mỹ.
Tổng quan về các nền văn minh cổ đại ở Trung Mỹ có nhiều cách chia thời kì khác nhau. Một nhóm tác giả gồm Robert M. Carmack, Janine Gasco và Gary H. Gossen từ Đại học New York và California đã công bố một sách mang tên “Di sản văn minh Mesoamerica: lịch sử và văn hóa của một nền văn minh bản địa châu Mỹ” năm 1996 (tái bản năm 2007) và chia các thời kì thành 5 giai đoạn khác nhau. Các giai đoạn đó bao gồm thời kì đồ đá, thời kì cổ xưa, thời kì hình thành, thời kì cổ điển và thời kì hậu cổ điển. Bảng sau đây so sánh niên đại phát triển của các nền văn minh Trung Mỹ theo từng thời kì.
Olmeccivilization developed and flourished during the Formative Period. At that time, the coastal area of Mexico, adjacent to the Gulf of Mexico, was inhabited by the ancient Olmec people in small villages located in low-lying regions. San Lorenzo is a typical village of Olmec culture. Archaeological evidence in this village shows that the Olmec people of this period began to settle and produce various household tools such as pottery and clay pots for their daily lives. The most common artifacts from this period are the statues of young heads found in Chiapas. By around 1200 BCE, Olmec stone sculpture had reached a high level of artistry, allowing us to admire the perfect features of the human heads – specifically the heads of Olmec leaders – that are still preserved in San Lorenzo and neighboring regions.
Trong thời kỳ Hình thành (900-400trCN), Le Venta đã trở thành trung tâm văn minh Olmec tiêu biểu. Nhiều tượng điêu khắc đá vừa và nhỏ đã được khám phá, cùng với đó là nhiều di chỉ mộ táng chứa đựng các đồ vật tùy táng và những chiếc mặt nạ bí ẩn.
Trong giai đoạn này, đã xuất hiện nhiều tổ chức nhà nước sơ khai, có liên kết với các khu vực lân cận và nghề thương mại. Phát hiện của nhiều hiện vật khảo cổ cho thấy người Olmec đã từng chiến thắng, cai trị và buôn bán với một số vùng lãnh thổ xung quanh. Ngoài Le Venta, hai khu vực khác cũng trở thành trung tâm văn minh quan trọng, bao gồm San Jóse Mogote ở thung lũng Oaxaca và Chalcatzingo ở Morelos. San Jóse Mogote nổi tiếng với các cấu trúc điêu khắc lớn và mô hình làng dân cư; còn Chalcatzingo nổi tiếng với nhiều hiện vật nghệ thuật đá có tính tôn giáo.
Cuối kì thời Hình thành, các trung tâm văn minh sớm đã dần suy tàn, mở ra thời kỳ hình thành và phát triển của trung tâm Cuicuilco vào khoảng đầu Công nguyên. Văn minh Cuicuilco thừa hưởng những đặc điểm của các trung tâm văn minh trước đó. Ở Cuicuilco cổ, cư dân Olmec đã xây dựng ngôi tháp đầu tiên tại châu Mỹ – một tòa tháp hình tròn gồm nhiều tầng chồng lên nhau. Theo ước tính của các nhà khoa học, vào thời điểm gần đầu Công nguyên, dân số tại Cuicuilco đã lên tới khoảng 20.000 người. Tuy nhiên, vào khoảng thế kỷ 1 sau CN, Cuicuilco đã suy tàn mà cho đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân. Sau đó, văn minh Teotihuacan nổi lên và trở thành trung tâm văn minh thịnh vượng trong thời kỳ Cổ điển tiếp theo.
Trùng với thời kỳ của văn minh Cuicuilco, thung lũng Oaxaca xuất hiện với văn minh Monte Alban kéo dài trong hơn một thiên niên kỷ.
Lịch pháp là một thành tựu văn hóa tiêu biểu của văn minh Olmec và các vùng lân cận, bên cạnh các thành tựu về vật chất và kỹ thuật.
Trong thời kỳ Hình thành (2000- thế kỷ 2 sau CN), người dân bản địa ở vùng Trung Mỹ đã bắt đầu sử dụng ba hệ thống lịch khác nhau. Loại thứ nhất là thánh lịch, được tạo ra từ sự kết hợp tuần hoàn của hai vòng. Vòng thứ nhất có 13 số (từ 1 đến 13), và vòng thứ hai bao gồm 20 tên gọi thần linh khác nhau. Vì vậy, một năm theo thánh lịch Olmec có 260 ngày (13×20), và mỗi ngày có tên gọi hoàn toàn khác nhau. Ví dụ, khi phương Tây nói “thứ sáu ngày 23 tháng 9”, người dân cổ Trung Mỹ nói là ngày “3 Imix” (Imix là tên thần). Thánh lịch này vẫn được sử dụng bởi nhiều cộng đồng bản địa châu Mỹ ngày nay. Loại thứ hai là dương lịch, một năm theo dương lịch cổ Trung Mỹ gồm 18 tháng, mỗi tháng có 20 ngày, cộng với 5 ngày riêng biệt, tổng cộng là 365 ngày, gần giống với lịch Tây ngày nay. Trong dương lịch Olmec, mỗi ngày trong tháng có tên của một vị thần hộ mệnh, khác hoàn toàn so với tên thần trong thánh lịch. Ví dụ, trong thánh lịch, “thứ sáu ngày 23 tháng 9” được gọi là “3 Imix”, trong khi trong dương lịch, nó được gọi là “15 Zac” (Zac là tên thần). Loại lịch thứ ba được hình thành bằng cách kết hợp hai loại lịch trên và tạo thành các chu kỳ, mỗi chu kỳ kéo dài 52 năm. Ví dụ, để gặp lại “thứ sáu ngày 23 tháng 9” trong thánh lịch “3 Imix, 15 Zac”, phải đợi đến sau 52 năm.
Hiện tại vẫn chưa có sự khẳng định chắc chắn về nguồn gốc của người Olmec cổ đại. Tuy nhiên, qua việc nghiên cứu các bức điêu khắc đá, tượng người và các hiện vật khảo cổ khác, nhiều nhà khoa học đã cố gắng tìm ra câu trả lời cho câu hỏi này. Hiện có 5 giả thuyết chính về nguồn gốc của cư dân cổ Trung Mỹ, bao gồm: 1) Nguồn gốc từ Atlantis (lục địa giữa Đại Tây Dương đã chìm theo thuyết của Plato); 2) Nguồn gốc từ Ireland; 3) Nguồn gốc từ Cận Đông (bao gồm Israel và Phynisia); 4) Nguồn gốc từ châu Á (di cư qua đường Bering); 5) Nguồn gốc từ châu Phi.
Với người Olmec tại Trung Mỹ, có giả thiết rằng họ có nguồn gốc từ châu Phi và vùng Cận Đông. Cả hai nhóm người này có thể đã đến Trung Mỹ thông qua các thương đoàn hàng hải. Về hình thể, nét mặt của các tượng đầu người trong văn minh Olmec rất giống với nét mặt của cư dân châu Phi, đặc biệt là phần môi. Bức điêu khắc trên cột đá ở La Venta cũng có hình ảnh người đàn ông giống thủy thủ người Phoenicia (vùng Cận Đông). Liên quan đến sử liệu, có câu chuyện về đoàn thuyền của vua Mali là Abubakari II cùng 2000 chiếc thuyền ra khơi về phía Tây và không trở lại. Điều này được ghi chép bởi nhà sử học người Arập al-Omari. Ngoài ra, còn có liên hệ giữa chuyến đi này và những gì Christopher Columbus đã ghi lại về những thương đoàn người da đen từ phía đông nam đến buôn bán với tổ tiên của họ trong quá khứ. Nghiên cứu y học hình thể hiện đại cũng cho thấy kết quả tương tự, khi các mẩu sọ người Olmec được giám định là hoàn toàn trùng khớp với kích cỡ và các đặc trưng của cư dân Tây phương.
Các so sánh này chỉ là một phần nhỏ trong việc khẳng định, nhưng chúng đã đem lại cho chúng ta nhiều thông tin thú vị về một nền văn minh cổ đại trong lịch sử của loài người.
Vào cuối thời kỳ Hình thành (thế kỷ 5-7 trCN), thung lũng Oaxaca trải qua sự biến đổi. Các cộng đồng Olmec di cư đến đây để định cư và khai phá. Tuy nhiên, thực sự chỉ khi người Zapotec đánh bại người Olmec và kiểm soát thung lũng, thì thị trấn Monte Alban mới được hình thành và phát triển. Các lãnh đạo Zapotec đã hợp tác với nhau để san bằng một ngọn đồi tại trung tâm thung lũng Oaxaca (cao 1940 mét so với mực nước biển, 400 mét so với thung lũng) để xây dựng thành Monte Alban. Tại vị trí này, người Zapotec có thể quan sát và bảo vệ toàn bộ thung lũng. Ngày nay, thành cổ Monte Alban cách thủ phủ bang Oaxaca (Mexico) 9 km. Tên gốc của Monte Alban vẫn còn bí ẩn, tuy nhiên người Zapotec hiện nay cho rằng nó có tên là Danibaan, có nghĩa là “Ngọn đồi linh thiêng”, trong khi người Mixtec gọi nó là Sahandevul (Chân trời). Monte Alban là tên mới được người Tây Ban Nha đặt theo tên một chủ đất người Tây Ban Nha trong thế kỷ 16 hoặc theo tên một ngọn đồi ở Ý.
Monte Alban là một thành phố đa nghĩa, liên quan đến tôn giáo, chính trị và dân sự. Thành phố này có một khu đền thờ ở trung tâm đỉnh đồi. Khu vực đền thờ được bao quanh bởi những công trình kiến trúc gò nổi trải dài xung quanh. Ở giữa là một quảng trường rộng lớn (300mx200m) có một đài trung tâm được sử dụng cho các nghi lễ và hoạt động chính trị của cộng đồng. Hai đầu phía nam và phía bắc của quảng trường có các đài cao, dưới đó là các phòng và lối đi phức tạp. Đài phía nam lớn hơn cả, với một lối đi lên đài được chạm khắc rất công phu. Xung quanh khu vực đền thờ là các nghĩa trang, đền thần và các công trình công cộng khác. Nhà dân cư được rải rác xung quanh ngọn đồi và kéo dài khắp thung lũng.
Thời kì này, thành bang Monte Alban tỏ ra rất mạnh mẽ về cả quân sự và chính trị. Ảnh hưởng của nó lan rộng khắp khắp thung lũng Oaxaca và các cao nguyên xung quanh. Suốt lịch sử, Monte Alban đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh để chinh phục các vùng lãnh thổ lân cận và mở rộng sự ảnh hưởng của mình. Các nhà khảo cổ đã phát hiện ra một lớp tường dày xung quanh thành phố nhằm bảo vệ nó khỏi bị tàn phá bởi kẻ thù từ bên ngoài. Một bức tường được khắc vẽ chi tiết miêu tả các chiến binh Monte Alban đối xử tàn nhẫn với tù binh người ngoại tộc. Trong quan hệ với thành bang Teotihuacan lớn ở thung lũng Mexico phía Bắc, Monte Alban luôn cố gắng duy trì địa vị đối tác trong một thời gian dài trước khi cuối cùng sụp đổ vào khoảng thế kỷ 7 – 8 sau Công nguyên và bị người Mixtec thế chỗ.
Cư dân của Monte Alban, như đã đề cập, là người Zapotec. Họ chủ yếu là nông dân, cũng có một số người làm buôn bán. Họ trồng trọt trên các mảnh ruộng rải rác trên thung lũng. Thành phố Monte Alban đã trải qua hai thời kỳ thịnh vượng: giai đoạn đầu Công nguyên và giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 8. Vào đầu Công nguyên, dân số của Monte Alban có thể đạt đến 17.200 người và sau đó tăng lên 35.000 người trong giai đoạn thịnh vượng. Sự gia tăng nhanh chóng về dân số và sức mạnh đã khiến Monte Alban trở thành trung tâm văn minh và có ảnh hưởng nhất của người Zapotec trong gần một thiên niên kỷ.
Monte Alban hiện nay còn giữ lại hơn 300 bức chạm khắc đá đặc sắc thể hiện hình ảnh của các “danzante” (vũ công). Tất cả các “danzante” đều là nam giới và được chạm trong nhiều tư thế độc đáo, với điệu bộ uốn éo và xoắn tít tay chân vào nhau. Chúng đều trong trạng thái lõa thể và một số bị mất bộ phận sinh dục. Tuy nhiên, các nghiên cứu khảo cổ học cho thấy chúng không phải là vũ công mà thực ra là những tù binh, chính xác là các thủ lĩnh của các bộ lạc thù địch (có thể là người Olmec) đã bị bắt và tra khảo tại Monte Alban. Một ý kiến khác cho rằng họ có thể là những nạn nhân hiến tế trong các nghi lễ cầu phần thực của cư dân trong thành. Ngoài ra, tại trung tâm Monte Alban còn có một tượng đá to hình mũi tên nổi bật hơn tất cả các tảng đá khắc khác, được cho là bia chiến thắng của người Zapotec cổ đại.
Cư dân Monte Alban thời đầu công nguyên đã sử dụng một loại chữ viết đơn giản nhưng có số lượng hạn chế. Ngoài các chữ số, họ đã tìm ra khoảng 80 đến 90 ký tự khác nhau. Các hình vẽ danzante được cho là mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Hai bia đá còn sót lại ở Monte Alban (số 12, 13) cho thấy một số ký tự đặc trưng của chữ viết Monte Alban. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu vẫn chưa thể giải mã ý nghĩa của tất cả những ký tự này do số lượng quá ít. Người Zapotec sử dụng chữ viết với hai mục đích chính là truyền thông tin quân sự (hiệu lệnh chiến đấu) và gửi thông điệp ngoại giao (đặc biệt là với thành bang Teotihuacan). Vào khoảng thế kỷ thứ 10 sau Công nguyên, loại chữ này đã bị lãng quên và thay thế bằng kiểu chữ của người Mixtec.
Cư dân Zapotec cổ sử dụng loại thánh lịch và dương lịch cổ phổ biến vùng Trung Mỹ (xem kỳ 1). Họ đặt tên 20 ngày trong tháng thánh lịch theo tên các sự vật hay hiện tượng như sau:
Teotihuacan – những chiến binh mạnh mẽ và đáng sợ.
Thế kỷ đầu tiên sau Công nguyên, Cuicuilo, kẻ thù của Teotihuacan đã sụp đổ, mở ra một giai đoạn phát triển huy hoàng cho văn minh thành thị Teotihuacan (nay thuộc bang México, nước Mexico). Thành bang Teotihuacan có thể được coi là một trong những “triều đại” sáng rực nhất trong lịch sử cổ đại của châu Mỹ.
Teotihuacan, một quần thể văn hóa nổi tiếng, được khám phá ở Mexico. Trên đây, Đại lộ Tử thần là trục đường chính nổi bật.
Theo thành tựu khảo cổ, Teotihuacan là một thành phố có quy mô lớn, với diện tích hơn 20km², được xây dựng ở trung tâm một thung lũng rộng và bằng phẳng. Nhìn từ trên cao, Teotihuacan nổi bật với một đại lộ lớn được gọi là Đại lộ Tử thần (Miccaotli), nằm theo hướng bắc – nam chếch một góc 16 độ về phía đông bắc, chia thành phố làm hai phần đối xứng về phía đông – tây. Ở cuối đại lộ Tử thần về phía bắc là Kim tự tháp Mặt trăng, và phía trước là một quảng trường lớn được sử dụng cho các nghi lễ tôn giáo và sinh hoạt chính trị cộng đồng. Gần trung tâm thành phố, ta có Kim tự tháp Mặt trời (cao thứ 2 tại châu Mỹ, cao 60m, sau Kim tự tháp Cholula cao 66m ở bang Pueble, Mexico). Các công trình như trụ sở các cơ quan làm việc, chợ búa, sân vận động, các công trình công cộng và nhà ở cho các công chức được xây dựng dọc theo Đại lộ Tử thần. Xung quanh đại lộ chính này, có vô số phức hợp nhà thị dân được xây dựng, với mỗi phức hợp có diện tích khá rộng, đủ để nhiều người cùng ở. Tường của các công trình nhà ở thường được làm bằng đá hoặc đất trộn, với cửa vào hẹp dẫn vào một khoảng sân hẹp giữa các nhà. Một số dãy nhà còn xây dựng mô hình kim tự tháp trước cửa, với mục đích tôn giáo. Những ngôi nhà này không chỉ là nơi ở, mà còn là xưởng sản xuất và nơi buôn bán hàng thủ công.
Cư dân của bang Teotihuacan có nguồn gốc đa dạng, trong đó đa số là người nói tiếng Nahuatl – ngôn ngữ của người Aztec cổ đại. Ngoài ra, còn có người Zapotec, Mixtec và Maya và nhiều dân tộc khác. Thành phố Teotihuacan phát triển mạnh mẽ nhất từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên. Dân số toàn thành phố ước tính khoảng 150.000 người và có thể đạt đến 250.000 người trong những thời điểm đông nhất, tương đương với một thành phố tỉnh lớn ở Việt Nam ngày nay. Con số này cho thấy sự thịnh vượng và tầm ảnh hưởng của Teotihuacan. Thành phố này được cho là lớn nhất ở châu Mỹ trước khi người châu Âu đến. Cư dân của Teotihuacan có một phần làm nghề buôn bán và một phần làm nghề nông. Cánh đồng nông nghiệp của họ nằm gần thành phố trong thung lũng phì nhiêu này.
Teotihuacan là một thành phố cổ ở Trung Mỹ.
Với quy mô dân số lớn như vậy, nhiều người nghĩ rằng Teotihuacan sẽ gặp khó khăn trong việc quy hoạch đô thị và cung cấp thực phẩm. Tuy nhiên, các khám phá và nghiên cứu khảo cổ đã chỉ ra rằng chính quyền của thành phố đã rất chuyên nghiệp trong việc quy hoạch và điều hành. Bản đồ phác thảo của thành phố cho thấy rằng các con đường nội thị được xây dựng theo mô hình lưới ô vuông, tạo điều kiện thuận tiện cho giao thông và vận chuyển hàng hóa. Điều này cũng dẫn đến việc các ngôi nhà đều có mặt tiền. Khi dân số thành phố tăng nhanh, chính quyền đã buộc phải di dân một số người nông nghiệp sống trong khu vực nội ô ra ngoại ô, nhằm giảm áp lực dân số và tạo điều kiện cho nông dân sản xuất thêm lương thực để cung cấp cho thành phố. Nguồn nước để ăn uống, sinh hoạt và tưới tiêu được lấy từ các dòng suối lớn chảy từ núi xung quanh, đảm bảo đủ để duy trì cuộc sống của toàn bộ cư dân trong thành phố. Ngoài lương thực, Teotihuacan cũng nhận được thực phẩm từ các địa phương khác thông qua trao đổi và buôn bán. Có nhiều bằng chứng khảo cổ cho thấy sản phẩm của Teotihuacan đã được buôn bán đến Guatemala và Honduras, gần lục địa Nam Mỹ.
Sinh sôi của nữ thần.
Lư hương tế thần – biểu tượng đặc trưng của Teotihuacan.
Sức ảnh hưởng về kinh tế và chính trị của thành bang Teotihuacan thời kì đó rất đáng kể. Theo nghiên cứu, Teotihuacan đã thiết lập quan hệ đối ngoại theo cách chủ động, và có ba vùng ảnh hưởng quan trọng: (1) kiểm soát toàn bộ vùng cao nguyên Trung Mexico và duy trì quan hệ trị chặt chẽ với các thị tứ và làng mạc trong khu vực; (2) xây dựng mạng lưới thương mại và thông qua thương mại, tác động chính trị lên hầu hết các khu vực quan trọng ở Trung Mỹ; (3) tầm ảnh hưởng về tôn giáo, tư tưởng và văn hóa của Teotihuacan còn lớn hơn cả tầm ảnh hưởng thương mại. Mặc dù không có văn tịch được tìm thấy từ văn minh Teotihuacan, nhưng thông qua các ghi chú của người Maya sau này, ta có thể thấy dấu hiệu của một trung tâm đế quốc trong sức ảnh hưởng chính trị của Teotihuacan vào thời điểm đó. Ví dụ, các khối chữ viết về chuyến đi sứ của các quan chức Teotihuacan đã được tìm thấy ở thành Tikal thuộc văn minh Maya, cho thấy Teotihuacan đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng một triều đại Maya mới tại Tikal. Các di vật khảo cổ cũng cho thấy thành bang Copan lân cận đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ từ Teotihuacan.
Teotihuacan thành lập một quân đội mạnh mẽ, kiểm soát toàn bộ vùng cao nguyên trung Mexico, thu thập dân cư từ khắp nơi để tập trung thành các làng và thị trấn nhỏ, nhằm quản lý dễ dàng và đạt được sản phẩm vật chất thông qua lao động bắt buộc. Nhiều thị trấn được xây dựng theo kiểu thành phố Teotihuacan, với con đường chính, quảng trường và đền thờ.
Bản đồ của trung tâm Teotihuacan được phục chế.
Teotihuacan là một thành bang tôn giáo, trong đó vai trò của thầy tu rất quan trọng. Theo niềm tin của người Aztec, thầy tu có quyền lực siêu nhiên, có thể giao tiếp với thần thánh và vạn vật, và là người truyền đạt thông điệp của thần thánh đến mọi người và truyền tải mong ước của dân chúng đến thần linh. Tất cả mọi người, bao gồm cả tầng lớp thống trị và thần dân, đều tôn trọng thầy tu và tuân theo các quy định về nghi lễ và tôn giáo. Những người có quyền lực trong xã hội thường xây nhà ở gần các khu vực tôn giáo, hy vọng nhận được sự bảo trợ của thần linh. Tôn giáo Teotihuacan có tính đa thần, với ba vị thần quan trọng nhất là Thần Mẹ đất, Rồng Quetzacoatl (rắn thần có lông vũ) và thần Mưa. Mỗi vị thần được coi là mang lại điều kiện cần thiết cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của dân tộc, con người, vạn vật và vũ trụ. Theo niềm tin của họ, sự sống bắt đầu từ các hang động dưới Kim tự tháp Mặt trời, nơi mặt trời, mặt trăng, con người và vạn vật ra đời. Trong các dịp trọng đại như mừng thu hoạch hay chiến thắng, thành Teotihuacan tổ chức lễ hiến tế nhân mạng cho thần linh. Thường thì tù binh không chịu quy phục sẽ trở thành nạn nhân của lễ hiến tế, đây mang ý nghĩa tôn giáo và chính trị đồng thời. Người Teotihuacan tin rằng có cuộc sống sau cái chết, cho nên trong phong tục tang ma, họ đặt vàng và ngọc vào miệng người chết với hy vọng có cuộc sống thịnh vượng sau khi qua cõi chết. Kho tàng văn học truyền miệng Teotihuacan rất phong phú, chủ yếu là thần thoại liên quan đến tôn giáo, kể về sự hình thành vũ trụ, con người và vạn vật, sức mạnh siêu nhiên của Mẹ đất và dũng mãnh của các anh hùng.
Teotihuacan xứng đáng được coi là một di sản văn hóa thế giới đáng để mọi người trên toàn thế giới đến chiêm ngưỡng và tìm hiểu vì những gì nó đã thể hiện.
Teotihuacan – nơi hiện diện Đại lộ tử thần.
Văn minh Toltec
Vào thế kỷ 8, thành bang Teotihuacan đã bị các bộ lạc từ phía bắc xâm chiếm và đánh bại, dẫn đến sự suy tàn và mất đi sự ảnh hưởng. Trong thời gian 200 năm tiếp theo, thung lũng Oaxaca đã trở nên rời rạc và phân tán. Vào khoảng năm 950, thành Tula đã trỗi dậy và chinh phục hầu hết khu vực Trung Mỹ, từ cao nguyên Bắc Mỹ cho đến Guatemala và bán đảo Yucatan. Người Toltec, những người rất yêu chiến, đã trở thành chủ nhân của thành Tula. Có ý kiến cho rằng họ là con cháu của những bộ lạc đã tiêu diệt thành Teotihuacan và một số dân cư Teotihuacan đã nhập cư vào thành Tula. Lãnh đạo của cộng đồng Toltec là một vị vua – chiến binh, được cho là có sức mạnh siêu nhiên trong mắt người dân. Các đế chế Toltec được xây dựng và củng cố bằng sức mạnh quân sự và chiến tranh chinh phục.
Người Toltec được cho là những người hết lòng tôn trọng và theo đuổi phong cách văn hóa Teotihuacan trung thành. Họ đã đưa những yếu tố tôn giáo, kiến trúc và cấu trúc xã hội từ thành bang Teotihuacan sang Tula để xây dựng quốc gia của mình. Hiện tại, giới khoa học chưa đồng ý với nguồn gốc thực sự của người Toltec. Từ “Toltec” có nghĩa là “nghệ nhân” hoặc “thợ thủ công” trong ngôn ngữ Nahual. Có thể Toltec là tên gọi cho những nhóm bộ lạc mang sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ phong cách Teotihuacan trong thời kì hưng thịnh của thành bang Tula.
Tula trước đây là thủ đô của đế quốc Toltec trong suốt hai thế kỷ. Người Toltec coi Tula là một vùng đất thiêng liêng, được gọi là “thành Tollan” (vùng đất lau sậy) trong truyền thuyết, nơi mà thần Quetzalcoatl cai trị trong ký ức của cư dân Toltec. Sau này, người Aztec cũng xem mình là con cháu của cư dân thành Tula – Tollan này. Một số người cho rằng Teotihuacan mới là thành Tollan huy hoàng. Theo nghiên cứu, Tollan có nghĩa là “thủ đô”, do đó người Toltec gọi thủ đô Tula là thành Tollan cũng có lý do của họ. Dân số của Tula đã từng đạt đến 30.000 người, khiến nó trở thành thành phố lớn nhất ở vùng Trung Mỹ vào thế kỷ 11.
Với sự tập trung vào quân sự, văn hóa Toltec không đạt được sự huy hoàng như thành bang Teotihuacan mà họ đã tiêu diệt.
Người Toltec, dù được gọi là “nghệ nhân”, nhưng kiến trúc của họ không có tính nghệ thuật cao. Thành Tula được xây dựng thô to và thiếu nét thẩm mỹ. Trung tâm Tula có một quảng trường lớn, xung quanh có đài cao, đền thần và bức tường chạm khắc hình rồng thần Quetzalcoatl – thần tối cao, cùng với tượng Chacmool và các cột tượng người chiến binh. Tổng thể, Tula thể hiện sự quân sự hơn là sự dân sự. Thành này đã bị tàn phá từ khoảng 1168-1179 và trọng tâm văn minh đã chuyển về bán đảo Yucatan ở phía nam. Tại Yucatan, văn hóa Toltec đã hòa quyện với văn hóa Maya để tạo nên trung tâm Chichen Itza. Về sau, Chichen Itza trở thành một trong những trung tâm văn minh lớn nhất của người Maya.
Tín ngưỡng Toltec mang tính nhị nguyên. Trong thần phả Toltec có hai vị thần tối thượng: (1) rồng Quetzalcoatl và (2) kẻ thù – thần Tezcatlipoca, thần chiến tranh. Thực chất, thần Quetzalcoatl từ lâu đã xuất hiện trong nhiều nền văn minh trước đó, nhưng chỉ trong thời kỳ văn minh Toltec, Quetzalcoatl mới đạt đến đỉnh cao sức mạnh và tạo ra kẻ thù Tezcatlipoca. Vị vua nổi tiếng nhất của đế quốc Toltec là Ce Acatl Topiltzin, được cho là hiện thân của thần Quetzalcoatl nên được gọi là “Topiltzin Quetzalcoatl đại đế”. Theo truyền thuyết Toltec và Aztec, những kẻ theo đuổi Tezcatlipoca đã thúc đẩy vua Topiltzin và người dân tín ngưỡng Quetzalcoatl chiến đấu về phía nam, chống lại người Maya và chiếm được thành Chichen Itza. Những kẻ tận dụng tình hình đã chiếm đóng thành Tula cho riêng mình. Topiltzin Quetzalcoatl đại đế đã thề rằng vào năm linh thiêng theo tuổi của mình, sẽ trở lại Tula từ phía đông để trả thù những kẻ chiếm đoạt. Câu chuyện này được người Aztec truyền lại qua miệng, và khi người Tây Ban Nha từ phía đông đến chinh phục Trung Mỹ, họ tưởng nhầm rằng đó chính là sự trở lại của Topiltzin Quetzalcoatl đại đế.
Tư tưởng Toltec cổ đại mang đậm tính nhị nguyên. Hậu thế kế thừa một hệ thống bộ sấm truyền vô cùng bí ẩn. Ngày nay, đã tìm thấy 33 bộ thẻ sấm còn tồn tại. Theo niềm tin của Toltec, những lời sấm truyền sẽ tiết lộ ánh sáng và bóng tối của linh hồn mỗi con người. Ánh sáng là phần thực tế, hiển nhiên mà con người có thể nhìn thấy, còn bóng tối là những kiến thức và khả năng ẩn giấu chỉ tồn tại trong tâm trí. Hệ thống sấm truyền này có tác động quan trọng đến cuộc sống tinh thần của người Toltec.
Một thành tựu văn hóa đặc biệt của người Toltec là trò chơi bóng nhựa kiểu Trung Mỹ cổ. Trò chơi này diễn ra trên một sân đá rộng, với một quả bóng được làm từ cao su. Ban đầu, trò chơi chỉ được tổ chức như một nghi lễ quan trọng trong các dịp tôn vinh thần linh hoặc ăn mừng chiến thắng. Những người thua cuộc trong trò chơi sẽ bị hiến tế cho thần linh. Sau đó, trò chơi đã mở rộng ra phổ biến trong cộng đồng và trở thành một hoạt động giải trí quan trọng. Hiện nay, tại di chỉ thành cổ Tula, vẫn còn tồn tại nhiều dấu vết của các sân bóng từ thời kỳ phát triển mạnh mẽ của văn minh Toltec.
Sau một thời gian thịnh vượng, văn minh Toltec của Trung Mỹ cổ đại đã dần phai nhạt và bị người Chimitec và các bộ lạc khác tiêu diệt vào khoảng đầu thế kỷ 13. Dân Toltec đã bị đồng hóa hoặc di tản về phía nam, cuối cùng cũng bị người Maya, những người đã trước đó thất bại, đồng hóa. Trong suốt 200 năm tiếp theo, Trung Mỹ rơi vào thời kỳ hỗn loạn trước khi người Aztec nổi lên, hưng thịnh và thống nhất lại.
Rồng Quetzalcoatl.
Quetzalcoatl là tên được tạo ra bằng việc kết hợp hai loài vật: chim quetzal có bộ lông sáng rực và rắn coatl. Rồng Quetzalcoatl đã xuất hiện trong văn hóa châu Mỹ từ hơn 2000 năm trước, từ các nền văn minh Olmec, Zapotec, Teotihuacan, sau đó là Toltec và cuối cùng là Aztec và Maya. Theo niềm tin của người dân Trung Mỹ cổ đại, Quetzalcoatl là thần sao Mai, thần sinh sôi, thần gió, thần nước, thần tạo ra vạn vật và con người. Trong các giai đoạn văn minh Olmec và Teotihuacan, rồng Quetzalcoatl được biểu thị bằng hình ảnh một con rắn thần có bờm lông chim trên đầu. Người Toltec liên kết thần Quetzalcoatl với vị anh hùng nổi tiếng Topiltzin trong thời kỳ thành lập quốc gia Tula. Trong các bức tranh của người Toltec, rồng Quetzalcoatl trở thành một người đàn ông thần bí – cũng là hình ảnh của vua Topiltzin. Thần thoại Quetzalcoatl kể câu chuyện về Quetzalcoatl dựa trên nhân vật chính là vua Topiltzin, rằng kẻ thù của Quetzalcoatl là Tezcatlipoca đã dùng mưu kế và giết chết Quetzalcoatl. Trái tim của Quetzalcoatl bay lên bầu trời và trở thành sao Mai. Quetzalcoatl đã thề sẽ trở lại từ phía đông để trả thù Tezcatlipoca. Các nghi lễ tôn kính Quetzalcoatl của người Toltec thường bao gồm việc hiến tế nhân mạng. Người Aztec sau đó bị ảnh hưởng bởi người Toltec và tôn Quetzalcoatl làm vị thần chủ tể. Người Maya cũng tiếp nhận hình ảnh của thần Quetzalcoatl trong thần phả của họ.
Đại đế Topiltzin Quetzalcoatl là một nhân vật quan trọng.
Cha của Topiltzin là Mixcoatl, lãnh đạo của các bộ lạc Toltec. Mẹ của Topiltzin là Chimalman, con gái của lãnh đạo bộ lạc Toltec tại Culhuacan. Mẹ qua đời chỉ sau bốn ngày sinh Topiltzin. Ngay từ khi còn bé, Topiltzin đã cho thấy khả năng quân sự vượt trội khi anh đã một mình bắt sống nhiều kẻ thù để hiến tế ở thành Tula. Thời điểm đó, người Toltec đang tiến hành nhiều cuộc chiến tranh chinh phục và Topiltzin cùng cha đã chỉ huy nhiều trận đánh và đạt được chiến thắng. Một ngày nọ, hơn 400 anh em dưới sự lãnh đạo của Mixcoatl nổi dậy, giết chết Mixcoatl và truy lùng Topiltzin. Nhờ sự thông minh, Topiltzin thoát khỏi hiểm nguy và dùng chiêu mưu để tiêu diệt những kẻ phản bội. Topiltzin trở thành thủ lĩnh tối cao của đế quốc Toltec, và đã chinh phục được nhiều vùng đất mới. Trong cuộc chinh phục vùng đất Chichen Itza ở bán đảo Yucatan, thủ đô Tula đã bị thế lực đối lập chiếm đóng. Người Toltec tại Tula đã bị tổn thương. Topiltzin đã thề sẽ quay trở lại Tula từ phía đông để đánh bại kẻ thù và giải cứu thành Tula. Cuộc đời và sự nghiệp của Topiltzin đã trở thành truyền thuyết về Thần Quetzalcoatl trong tâm trí của người sau này.
Chacmool.
Tượng hình người nằm ngửa, đầu ngẩng cao và nhìn về một phía (trái hoặc phải), hai tay nắm một chiếc khay đặt trên bụng được tạc tại các thành phố do người Toltec cai trị như Tula, Chichen Itza. Cho đến nay người ta vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa của loại tượng này. Tên gọi chacmool được đặt bởi nhà khảo cổ học người Anh là Augustus Le Plongeon (1826-1908) khi ông khai quật tại thành Chichen Itza vào năm 1875. Theo Le Plongeon, chacmool là tên của một vị hoàng tử Maya đã từng chiến thắng thành Chichen Itza. Ngày nay, tượng chacmool cũng được tìm thấy ở một số nơi khác ở Mexico và Guatemala.
Văn minh Maya
Văn minh Maya bắt đầu xuất hiện vào cuối thời kỳ Hình thành, trước thế kỷ 2 sau Công nguyên. Tuy nhiên, thời kỳ thịnh vượng thực sự của họ diễn ra trong thời kỳ Cổ điển (200-500) và Hậu cổ điển (500-1500) trong lịch sử Trung Mỹ.
Trên tổng thể, văn minh Maya thời Cổ điển có thể được chia thành hai giai đoạn: văn minh sớm (200-600) và văn minh muộn (600-900). Trong khoảng thời gian này, có một giai đoạn gián đoạn kéo dài 136 năm (557-692) do chiến tranh. Trong giai đoạn văn minh sớm, người Maya sống rải rác ở vùng đồng bằng và núi thấp, làm nông theo phong cách “đao canh hỏa chủng”. Một số nơi có mật độ dân số cao hình thành các thị trấn. Trước khi khảo cổ học phát triển, nhiều người đã lầm tưởng rằng người Maya không có các đô thị tập trung lớn, nhưng các phát hiện gần đây đã cho thấy rằng họ đã có nhiều đô thị như vậy như Tikal, Chichen Itza, Palenque, Copán, và nhiều nơi khác. Dân số chủ yếu là nông dân, có một số là thương buôn, tu sĩ và nô lệ. Các tu sĩ tập trung ở các trung tâm tôn giáo và đảm nhiệm vai trò trong sinh hoạt tâm linh của cộng đồng. Mặc dù các đô thị Maya ở vùng đồng bằng có nhiều đặc trưng văn hóa chung, nhưng chúng chưa bao giờ thống nhất trong lịch sử. Mỗi đô thị lớn hình thành một kiểu thành bang nhất định bao gồm một đô thị trung tâm, một số thị trấn và vùng nông thôn xung quanh. Lịch sử của người Maya đã trải qua nhiều cuộc chiến giữa các thành bang này. Một số thành bang đã liên kết để tạo ra sức mạnh tập thể để chinh phục và quản lý các thành bang khác. Vào cuối thế kỷ 9, văn minh Maya bắt đầu suy yếu do tác động của những đợt khô hạn kéo dài và sự tàn phá của chiến tranh.
Từ thế kỷ 10 trở đi, văn minh Maya đã chịu ảnh hưởng đáng kể từ vùng thung lũng trung Mexico, bao gồm văn minh Toltec và Aztec. Ở vùng cao nguyên Chiapas của Mexico và Guatemala, tình hình xã hội trở nên phức tạp do chiến tranh. Hầu hết các thủ lĩnh của các nhóm bộ lạc Maya trong khu vực đều có nguồn gốc từ quý tộc Toltec ở phía bắc. Tuy nhiên, văn minh Maya trong thời kỳ này không tiến bộ như trước. Chỉ đến giữa thế kỷ 15, vùng văn hóa Maya bắt đầu hòa nhập lại dưới sự cai trị của thành bang Mayapan. Tuy nhiên, văn minh Maya không thể phục hồi và cuối cùng, người Tây Ban Nha đã tiếp xúc và chinh phục Maya vào năm 1542.
Kinh tế của người Maya chủ yếu dựa vào nông nghiệp và chăn nuôi. Vùng đồng bằng của họ rất phổ biến ngô và các loại rau củ quả. Đặc sản đặc biệt của người Maya là cây cacao, mà họ đã sử dụng từ rất lâu. Một phần người Maya cũng làm nghề buôn bán, và cacao là một mặt hàng quan trọng trong hoạt động trao đổi hàng hóa. Để thuận tiện cho việc giao dịch, các thương gia Maya thường thành lập các trạm buôn bán dọc đường.
Săn bắt trong cuộc sống.
Trong cộng đồng tổ chức, các thành bang Maya sử dụng cah (tức là tổ) làm đơn vị hành chính nhỏ nhất, trên đó là ch’ibal (tộc) và các cấp cao hơn. Dân Maya được chia thành ba hạng: quý tộc, bình dân và nô lệ. Quý tộc bao gồm những người lãnh đạo, tu sĩ và những người kinh doanh. Bình dân bao gồm nông dân và thợ thủ công. Nô lệ bao gồm nhiều nhóm, bao gồm những người nghèo, tù binh và những người bị bán bởi cha mẹ. Họ thường được sử dụng như bia đỡ tên trong chiến tranh, là nguồn lao động chính trong thời bình và là nạn nhân của các nghi lễ tôn thờ thần linh. Người Maya coi trọng hôn nhân, mặc dù nó được xây dựng dựa trên quyền lợi gia đình hơn là tình yêu. Gia đình của cô dâu đòi hỏi nhiều tiền và các lễ vật khác trước khi đồng ý cho con gái kết hôn. Đôi khi, người đàn ông phải làm việc cho gia đình vợ trong vài năm đầu sau khi cưới. Luật pháp Maya cho phép ly hôn trong trường hợp vô sinh, lừa dối và ngoại tình. Trẻ em sẽ sống với cha hoặc mẹ tùy thuộc vào thỏa thuận.
Maya là một hình tượng thần.
Giống như nhiều cộng đồng bản địa khác, tôn giáo của người Maya có đặc trưng đa thần. Mỗi vị thần đều có các hoạt động riêng và có mối liên hệ sâu sắc với thần thoại và vũ trụ truyền thống. Ví dụ, K’awil đại diện cho thần sét, Chac là thần mưa, thần Ngô, Ek Chuah là thần thương buôn, Ixchel là thần sinh sản, và Itzamna là thần ma thuật và bảo hộ cho tu sĩ. Ngoài các vị thần bản địa, người Maya cũng tôn thờ các vị thần từ Teotihuacan, Toltec và Aztec. Ví dụ, thần mưa không chỉ có thần Chac mà còn có thần Tlaloc từ văn minh Teotihuacan. Thần Quetzalcoatl từ văn minh Toltec ở Tula được người Maya gọi là Kukulkan, người được coi là người sáng lập ra nhiều thành bang Maya như Mayapan, Tikal, và nhiều nơi khác. Kukulkan cũng được coi là người thầy tu và anh hùng, mang tri thức đến cho lớp tu sĩ và giới quý tộc. Các nghi lễ tôn giáo thường liên quan đến việc hiến máu từ lưỡi và tai, hiến tế nhân mạng, đi săn, đốt hương, và nhiều tục lệ khác.
Popol Vuh kể rằng vũ trụ đã trải qua nhiều chu kỳ sinh tồn và diệt vong do đại hồng thủy. Thần Hunab Ku là người sáng tạo vũ trụ cũng như là người hủy diệt. Với tay cầm một chiếc bát, thần này khiến nước đổ xuống và tạo thành đại hồng thủy mỗi khi bát nghiêng. Một con rắn thần nằm ngang qua bầu trời, tạo nên dải ngân hà. Hai anh hùng Hunapu và Xbalanque cùng hành trình xuống địa ngục Xibalba, vượt qua sự quản thúc của thần cai quản địa ngục, và trở lại trần gian dưới hình hài Mặt trời và sao Kim. Câu chuyện tái sinh của Mặt trời và sao Kim thể hiện quan niệm về tự nhiên và con người.
Maya và chữ viết của đế quốc Aztec có sự tương đồng nhất định, đặc biệt là trong việc sử dụng hình ảnh để biểu thị chữ viết. Chữ viết Maya thường được sử dụng để ghi lại lịch sử, thiên văn – lịch pháp, tôn giáo, thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Trong hệ thống đếm của Maya, họ sử dụng hệ nhị thập phân với số 20 là cơ số. Mỗi chấm (.) Được sử dụng để biểu thị số 1 và mỗi thanh ngang (-) được sử dụng để biểu thị số 5.
Codex Madrid là một tài liệu viết bằng chữ Maya cổ.
Người Maya cũng sử dụng hai loại lịch khác nhau. Thánh lịch (Tzolk’in) có 1 năm gồm 260 ngày, trong khi đó dương lịch (Haab) có 365 ngày. Một chu kỳ lịch dài của họ kéo dài 52 năm, tương tự như các dân tộc khác trong khu vực Trung Mỹ.
Cách ghi lịch pháp của người Maya.
Vào khoảng sau Công nguyên, người Maya đã bắt đầu áp dụng hệ thống đếm lịch đặc trưng của riêng họ. Hệ thống này sử dụng số 20 như một đơn vị cơ bản để phát triển các đơn vị đếm lớn hơn trong lịch pháp, cụ thể là:
Kin = Một ngày trôi qua.
20 kin (20 ngày) tương đương với một uinal.
Trong hệ thống thời gian Maya, tun tương đương với 18 tháng hoặc 360 ngày.
20 tun tương đương với 7200 kin, tương đương với khoảng 20 năm.
Baktun tương đương với 20 katun hoặc 144.000 kin, tương đương khoảng 400 năm.
Lịch Maya ghi chép cho mỗi ngày. Theo truyền thuyết, ngày đầu tiên (số 0) bắt đầu vào năm 3114 trước Công nguyên theo lịch Tây. Ví dụ, ngày 1 tháng 1 năm 1996 theo lịch Tây được ghi là 12.19.2.13.19, có nghĩa là đã trải qua 12 baktun, 19 katun, 2 tun, 13 uinal và 19 kin kể từ năm 3114 trước Công nguyên. Văn minh Maya Cổ điển suy giảm vào đầu thế kỷ 10, và ngày cuối cùng được ghi chép là 10.4.0.0.0, tức là năm 909 theo lịch Tây.
Lịch Maya
Các thành phố Maya nổi tiếng mà chúng ta có thể kể đến.
Tikal là một đô thị Maya lớn nhất, bao gồm hơn 3000 công trình lớn nhỏ và nằm trong khu rừng Peten ở Guatemala ngày nay. Diện tích của nó rộng 23 km2 và có khoảng 50.000 người sinh sống, ít hơn so với Teotihuacan (200.000 người) và Tenochtitlan (70.000 người). Tikal được xây dựng từ thế kỷ 4 và có nhiều bằng chứng cho thấy quý tộc của thành bang Teotihuacan đã thống trị nó vào cuối thế kỷ 4. Mặc dù vậy, người Maya đã hòa nhập các yếu tố văn hóa từ Teotihuacan. Vào năm 562, thành Tikal bị Calakmul xâm chiếm và phá hủy. Sau đó, vào năm 692, Tikal được phục hồi và Vua Jassaw Chan K’awiil (682-734) đã đánh bại Calakmul vào năm 695, đồng thời xây dựng nhiều đền đài. Tuy nhiên, thành Tikal cuối cùng đã hoang phế từ năm 869.
(2) Palenque: Nằm trên một ngọn đồi thuộc vùng Chiapas, nhìn ra vịnh Mexico. Palenque bắt đầu hình thành vào khoảng năm 431 Tây lịch, nhưng được xây dựng chủ yếu trong thời cai trị của hai vị vua Janab Pakal I (trị vì 615-683) và K’inich Kan B’alam II (trị vì 684-702). Kiến trúc của Palenque có sự khác biệt đáng kể so với các đô thị Maya khác, với nhiều bức phù điêu được làm từ đá và trát vữa, và các phòng ốc có tường mỏng để tạo không gian rộng thoáng bên trong. Palenque đã chìm vào lãng quên vào đầu thế kỷ 8.
Palenque.
(3) Copán là một thành phố Maya nằm ở thung lũng Copán, cao 2000 mét, ngày nay thuộc Honduras. Thành phố này được hình thành từ đầu Công nguyên và là một trong số ít các thành phố Maya xây dựng trên vùng đất cao. Từ năm 426, Copán đã trở thành trung tâm của một bang với sự thống trị của vua K’inich Yax K’uk Mo’. Vua này được cho là có mối liên kết với thành Teotihuacan, như trường hợp của thành Tikal. Có nhiều văn bản Maya cho thấy có một thế lực từ nơi khác đã đến và thống trị Copán, trong đó người lãnh đạo được mô tả giống như thần Tlaloc của thành Teotihuacan. Thành phố Copán đạt đỉnh cao phát triển vào thế kỷ 7. Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ 9, Copán trở nên suy yếu do sự nổi lên của các thế lực quý tộc tranh đấu cho quyền lực.
Copan.
Mayapan là một địa điểm quan trọng trong văn hóa Maya, nổi tiếng với sự phát triển văn hóa và nghệ thuật.
Mayapan.
Văn minh Aztec
Người Aztec, hay còn được gọi là người Mexica, là dòng họ của các bộ lạc Chichimec và Toltec trong thời kỳ hậu cổ điển (thế kỷ 5 – 15). Họ được coi là người thừa kế di sản văn hóa của Teotihuacan và Tula – hai nền văn minh nổi tiếng trước đó. Vào đầu thế kỷ 13, thành Tula của người Toltec bị bộ lạc Chimitec từ phía bắc xâm chiếm và hủy diệt. Người Chimitec đã hấp thụ văn hóa của người Toltec và tiếp tục di cư về phía nam đến thung lũng Mexico. Họ đã thống nhất tên gọi dân tộc là Aztec – Mexica. Người Aztec khẳng định rằng văn hóa và tôn giáo của họ có nguồn gốc từ văn minh Toltec, tuy nhiên, các nhà nghiên cứu công nhận rằng họ đã tiến xa hơn rất nhiều so với các nền văn minh trước đó.
Theo truyền thuyết, khi mới đến thung lũng Mexico, người Aztec được cho là những cư dân kém văn minh hơn các cộng đồng bản địa khác, và phải chịu số phận phụ thuộc, phải cống nạp hàng năm cho thành bang địa phương những vật phẩm quý giá. Nhận thức được trình độ văn minh của mình thấp hơn, họ không ngừng học hỏi và khiêm tốn để tồn tại. Qua quá trình rèn luyện và tinh thần học hỏi, họ dần trở nên mạnh mẽ và giữ được độc lập so với các cộng đồng khác. Ban đầu, người Aztec chinh phục và phát triển một số thành bang nhỏ như Tlaxcalan, Cholula, Morelos, Toluca và nhiều nơi khác. Sau đó, họ xây dựng một đô thị theo phong cách sáng tạo riêng của mình – thành phố Tenochitlan. Vào đầu thế kỷ 14, cộng đồng Aztec đã biến đổi thành một đế quốc mạnh mẽ tại vùng Trung Mỹ.
Năm 1428, đế chế Aztec thống nhất ba thành bang mạnh mẽ là Tenochtitlan, Texcoco và Tlacopan và mở rộng chiến dịch chinh phục các thành bang khác ở thung lũng Mexico, ở miền trung và nam Mexico. Người Aztec lựa chọn Tenochtitlan làm thủ đô và thiết lập hệ thống tỉnh trực thuộc để quản lý chính trị, hành chính, kinh tế và tôn giáo tại mỗi vùng đất đã chiếm được. Đế chế Aztec đạt đến đỉnh cao thịnh vượng với dân số khoảng 10 đến 15 triệu người.
Đế quốc Aztec đã trải qua 11 triều đại vua, trong đó vua nổi tiếng nhất phải kể đến Motecuhzoma Ilhuicamina (trị vì 1440-1468). Dưới sự lãnh đạo của vị vua này, liên minh ba thành phố Aztec đã mở rộng lãnh thổ đến tối đa. Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại, đế quốc Aztec vẫn đối mặt với những thành phố kháng cự mạnh mẽ như Tlaxcalans, Huexotzinco và Cholula, mặc dù chúng nằm trong lòng đế quốc Aztec. Đối với những vùng lãnh thổ ngoại vi, người Aztec đã sử dụng quyền lực chính trị và quân sự để đe dọa, buộc chúng phải tuân thủ và được hưởng quyền tự trị tối đa. Trong thời điểm này, châu Mỹ đã nổi lên bốn tập đoàn lớn, bao gồm Aztec, Taracsan, Maya và tập đoàn Nam Mỹ (vùng ven biển Thái Bình Dương). Đế quốc Aztec duy trì mối quan hệ “anh cả – em út” với đế quốc Taracsan, có quan hệ tương đối bình đẳng với Maya lân cận và duy trì quan hệ ngoại giao và thương mại với tập đoàn Nam Mỹ xa xôi.
Chợ Tlateloloco trong nghệ thuật Aztec.
Nghệ thuật của người Aztec có tính đa dạng và phong phú, được tạo ra từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Trong nghệ thuật tạo hình, phong cách kiến trúc của đền đài và thành trì là tiêu biểu, mang dấu ấn tổng hợp của người Aztec và một số vẫn tồn tại đến ngày hôm nay ở Mexico. Nghệ thuật hoa văn trang phục của họ cũng rất độc đáo, thường có nhiều mô típ hoa, lá, chim, chóc. Trang phục dành cho giới quý tộc thường được làm công phu hơn và mang ý nghĩa tôn giáo. Trong nghệ thuật diễn xướng, người Aztec rất giỏi làm thơ và hát. Các hoàng đế Aztec thường tổ chức hội thi thơ trong cung đình để chọn ra nhà thơ tốt nhất. Lễ hội ca hát để chào mừng năm mới, thu hoạch và chiến thắng là những dịp quan trọng trong sinh hoạt cộng đồng.
Đế quốc Aztec được cho là quan trọng giáo dục phổ thông, với trẻ em từ 1 đến 14 tuổi được giáo dục tại nhà. Tuy nhiên, khi đạt đến 15 tuổi, tất cả đều được đến trường. Mặc dù trẻ em gái thường chỉ được học các kỹ thuật nữ công, nội trợ và y thuật. Trường học Aztec được chia thành hai loại: trường phổ thông telpuchcalli và trường quý tộc calmecac. Ở các trường phổ thông, trẻ em nam được dạy các kiến thức cơ bản, nâng cao và kỹ thuật chiến tranh. Các trường quý tộc được dành để đào tạo nguồn lãnh đạo xã hội, giáo viên, các thầy tu và các nghệ nhân cao cấp. Trẻ em nam bình dân nhưng có tài năng vượt trội sẽ được chuyển sang học tại trường quý tộc.
Aztec là một hệ thống chữ viết phát triển từ truyền thống của văn minh Teotihuacan và đặc biệt là văn minh Toltec, vì vậy nó phong phú hơn về nguồn từ vựng và loại hình. Văn tự Aztec bao gồm cả chữ tượng hình, chữ tượng ý, dấu tốc ký và các ký hiệu đặc thù khác. Nó được sử dụng rộng rãi trong các bộ lạc Aztec và người ta có thể hiểu được nó dù nói các thứ tiếng khác nhau. Các văn bản Aztec ghi lại các thông tin quan trọng về quản lý hành chính, luật pháp, tôn giáo, chiến tranh và các công việc dân sự quan trọng. Hoàng đế Aztec rất coi trọng việc ghi chép chính sử và kiến thức quan trọng, vì vậy họ đã tạo ra một lực lượng chuyên biệt để viết sách.
Rồng Quezalcoatl.
Aztec trong Codex Mendoza có một thủ lĩnh mạnh mẽ.
Luật pháp của người Aztec được cho là rất nghiêm khắc và hoàn chỉnh. Với vị trí quyền lực của mình, người chiến binh Aztec đã áp dụng những quy định nghiêm khắc để bảo vệ thành quả sau những cuộc chiến. Ngay cả tội phạm nhỏ nhất như trộm cắp cũng có thể bị xem là tội ác và bị hiến tế cho thần linh. Nhờ vào việc quản lý chặt chẽ bằng pháp luật, xã hội trong đế quốc Aztec đã duy trì sự ổn định đáng kể.
Trong lĩnh vực y học, bác sĩ người Aztec đã thực hiện các phẫu thuật, điều trị các bệnh thông thường và các bệnh da hiệu quả. Thảo dược Aztec thời đó đã phát triển mạnh mẽ và được cho là tốt hơn thảo dược châu Âu cùng thời điểm. Từ việc nghiên cứu, thử nghiệm và tổng hợp, các bác sĩ Aztec đã tổng hợp tất cả kiến thức đó để giảng dạy trong các trường y học.
Aztec là một đế quốc nổi tiếng trong lĩnh vực luyện kim, vàng là sản phẩm nổi bật nhất của họ. Chính vì vậy, năm 1519, tướng Tây Ban Nha Hernan Cotez đã chọn Tenochtitlan – thủ đô của Aztec làm mục tiêu chinh phục quan trọng nhất. Khi Cotez đến, vua Aztec là Moctezuma đã chào đón trọng thể, tin rằng thần Quetzalcoatl đã trở lại. Tuy nhiên, khi biết được rằng Cotez không phải là thần, vua Moctezuma đã cố gắng đuổi đánh đoàn quân Tây Ban Nha bằng cách ban bố rất nhiều vàng và ngọc. Nhưng điều không ngờ là nguồn vàng phong phú này lại hấp dẫn nhiều đoàn quân Tây Ban Nha hơn, cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của Tenochtitlan và đế quốc Aztec.
Tôn giáo Aztec theo hướng đa thần. Thần thoại sáng thế của họ kể rằng thần Coatlique đã sinh ra mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Người Aztec tôn thờ thần Huitzilopochtli – thần mặt trời và thần chiến tranh; thần Quetzalcoatl – thần văn minh. Theo niềm tin của họ, hai vị thần này tạo ra lửa, tạo ra con người, lịch pháp, đất, nước, vàng, thiên đàng và địa ngục. Thần thứ ba là Tlaloc – thần mưa và thần sinh sôi. Ngoài các vị thần này, người Aztec còn tôn thờ nữ thần Đất mẹ Tonantzin. Trong một số giai đoạn lịch sử, người Aztec coi các vị thần có vị trí ngang nhau. Trong giai đoạn khác, họ coi trọng thần Huitzilopochtli hơn. Dưới các vị thần này còn có hàng loạt các vị thần nhỏ khác, mỗi vị thần quản lý một lĩnh vực nhất định. Người Aztec tin rằng việc hiến tế nhân mạng phải được duy trì đều đặn để vũ trụ tiếp tục luân chuyển.
Lịch pháp Aztec liên quan chặt chẽ đến tôn giáo và phát triển từ các lịch pháp Olmec, Teotihuacan và Toltec trước đó. Nó được chia thành hai loại lịch, bao gồm lịch thánh (260 ngày) và lịch dương (365 ngày). Người Aztec đặt tên cho 20 ngày trong mỗi tháng theo cách riêng của họ. Đặc biệt, họ tin rằng ngày cuối cùng của mỗi chu kỳ 52 năm có thể là ngày tận thế. Họ cho rằng sau 52 năm, thần thánh có thể tiêu diệt toàn bộ vũ trụ. Trong 5 ngày cuối cùng, người Aztec dập tắt lửa, vứt bỏ đồ đạc trong nhà và im lặng cầu nguyện trong khu thánh địa. Vị tu sĩ cao nhất (thường là hoàng đế) đứng trên đài thiên văn chờ đợi. Khi chòm sao Kim Ngưu xuất hiện, vị tu sĩ này sẽ đốt lửa, thông báo rằng thần thánh đã cho phép loài người tiếp tục sống thêm 52 năm. Mọi người rút ra đường để múa hát. Trong những ngày tiếp theo, diễn ra nghi lễ hiến tế nhân mạng để đền ơn thần thánh. Hàng chục, hàng trăm, thậm chí hàng ngàn tù nhân và phạm nhân sẽ bị hiến tế.
Đế quốc Aztec – Mexica suy yếu do mất mùa và bệnh dịch. Vào đầu thế kỷ 16, bệnh đậu mùa và sốt châu Mỹ đã giết chết hơn một nửa dân số Aztec. Trong khi đó, người Tây Ban Nha bắt đầu chinh phục và sau cùng chiếm đóng thủ đô Tenochtitlan vào ngày 13 tháng 8 năm 1521. Đế quốc Aztec đã chấm dứt. Từ những tàn tích của thành phố Tenochtitlan, một quốc gia mới đã hình thành và được đặt tên là Mexico, theo tên gọi của người Aztec – Mexica.
Tenochtitlan là một thành phố.
Tenochtitlan được xây dựng từ năm 1325 trên một hòn đảo giữa hồ Texcoco. Năm 1428, nó trở thành thủ đô đế quốc Aztec. Theo niềm tin của Aztec, họ đã chọn nơi này để làm thủ đô sau khi nhận được điềm báo từ thần Huitzilopochtli: một con chim ưng đang ăn thịt một con rắn trên cây xương rồng. Hình tượng này sau đó được chọn làm biểu tượng quốc gia của Mexico. Tenochtitlan nằm giữa vùng thung lũng Mexico giàu có và dân cư đông đúc, làm cho mặt kinh tế và thương mại của thành phố trở nên sôi động. Theo người Tây Ban Nha ghi nhận, vào năm 1519, Tenochtitlan có diện tích rộng khoảng 13 km2 và dân số khoảng 200.000 người.
Kiểu kiến trúc của thành Tenochtitlan được mô phỏng và cách tân từ hai thành phố Teotihuacan và Tula trước đó. Trong thành phố này, có nhiều hệ thống kênh đào để người dân có thể di chuyển bằng cả đường bộ và đường thủy. Họ còn xây dựng các đập để ngăn nguồn nước mặn từ hồ Texcoco và giữ nguồn nước ngọt cho sinh hoạt. Cư dân của thành Tenochtitlan đa dạng, bao gồm nghệ nhân, thương buôn, tu sĩ và nông dân. Thành phố Tlateloco lân cận được chọn làm chợ đầu mối, trong khi Tenochtitlan tập trung vào việc xây dựng chợ tiêu dùng. Tenochtitlan vượt trội hơn tất cả các thành phố Trung Mỹ trước đó về quy hoạch, hệ thống chợ và hệ thống thương mại. Các hoạt động chính trị và tôn giáo diễn ra tại khu vực thánh địa trung tâm của Tenochtitlan. Trong thánh địa này, người Aztec xây dựng nhiều kim tự tháp và đền đài có quy mô lớn, với phong cách kiến trúc đa dạng, tương tự như các khu thánh địa nổi tiếng khác như Tikal, Monte Alban, Xochicalco và Teotihuacan. Mặc dù ngôi đền trung tâm không lớn bằng kim tự tháp Mặt trời ở Teotihuacan, nhưng nó mang trong mình sự tinh xảo và độc đáo với nhiều hình tượng tôn giáo. Gần khu vực thánh địa là hai sân bóng, nơi cư dân thành phố tham gia các hoạt động thể thao.
Thành phố Tenochtitlan đã bị phá hủy trong thời kỳ Tây Ban Nha chinh phục (vào đầu thế kỷ 16). Tuy nhiên, người Mexico đã xây dựng lại thành phố từ những đống đổ nát và biến nó trở thành thủ đô Mexico hiện nay, với dân số lên tới hơn 20 triệu người. Các di tích của Tenochtitlan nằm sâu dưới lòng đất thủ đô Mexico hiện đại và chỉ từ năm 1978-1988, người ta mới bắt đầu khai quật, duy tu và trưng bày chúng với thế giới.
Aztec, đế quốc nổi tiếng với nhiều đô thị nhỏ, bên cạnh thành phố Technochitlan. Trong số đó, thành Cholula nổi bật với kim tự tháp cao nhất châu Mỹ, đạt đến 66m.
Đếm số Aztec.
Số đếm trong văn hóa Aztec được tính bằng hệ nhị phân (sử dụng số 20 làm đơn vị chuẩn trong tính toán). Ký hiệu số 1 bằng một chấm đen hoặc vòng tròn nhỏ có hai hình tròn đồng tâm, lá cờ biểu thị số 20, một chiếc lông có giá trị là 400, và một túi hương đại diện cho số 8000.
Số 5 có thể biểu thị theo hai cách: 5 chấm đen; hoặc 1 thanh ngang dài. Số 10 có 3 cách: 10 chấm đen; hai thanh ngang dài; hoặc 1 hình thoi. Tuy nhiên, với các con số dưới 20, cách thể hiện bằng các chấm là phổ biến nhất.
Cách biểu thị số lượng khá đơn giản là tổng của các tích của các đơn vị 1, 20, 400 và 8000. Dưới đây là ba ví dụ điển hình:
Bài viết được lấy từ nguồn.
Tôi là Nguyễn Văn Sỹ có 15 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thiết kế, thi công đồ nội thất; với niềm đam mê và yêu nghề tôi đã tạo ra những thiết kếtuyệt vời trong phòng khách, phòng bếp, phòng ngủ, sân vườn… Ngoài ra với khả năng nghiên cứu, tìm tòi học hỏi các kiến thức đời sống xã hội và sự kiện, tôi đã đưa ra những kiến thức bổ ích tại website nhaxinhplaza.vn. Hy vọng những kiến thức mà tôi chia sẻ này sẽ giúp ích cho bạn!