Có thể bạn sẽ ngạc nhiên khi không biết rằng trong quá khứ đã tồn tại nhiều hình thái người khác nhau.
Nếu chúng ta có thể thích nghi với môi trường hiện đại như con người ngày nay, chúng ta sẽ có những “anh em” khác và xã hội con người sẽ trở nên đa dạng hơn rất nhiều.
1. Có bao nhiêu dân tộc trên thế giới?
Con người thường phân loại chủng tộc dựa vào tổ tiên hoặc những đặc điểm sinh học nổi bật như màu da và các đặc điểm khác trên khuôn mặt.
Ngoài ra còn có những đặc trưng khác như ngôn ngữ, văn hóa và đất nước mà họ đang sống.
Chủng tộc là các nhóm người hình thành trong quá trình lịch sử trên một vùng đất cụ thể, có những đặc điểm chung về di truyền trên cơ thể.
Các chỉ số quan trọng để phân biệt các chủng tộc là các đặc điểm về hình dáng ngoại hình, bao gồm màu da, kiểu tóc, hình dạng hộp sọ, kích thước mũi, môi và cấu trúc cơ thể.
Các dân tộc trên toàn cầu.
Chủng tộc Môngôlôit: Chiếm khoảng 40% dân số toàn cầu, tập trung chủ yếu ở châu Á và châu Mỹ.
Khoảng 20.000 năm trước, vào cuối kỳ băng hà Đệ Tứ, mực nước biển trên toàn cầu thấp hơn rất nhiều so với ngày nay. Châu Á và Bắc Mĩ được kết nối với nhau thông qua eo đất Bê-rinh.
Sự dễ dàng di cư từ châu Á sang châu Mĩ đã cho phép người Môngôlôit trở thành cư dân bản địa châu Mĩ. Tuy nhiên, sau đó, sự ngăn cách giữa châu Á và châu Mĩ đã xảy ra do sự băng tan của eo biển Bê-rinh.
Từ đó nhánh Môngôlôit ở châu Mĩ bị cách ly hoàn toàn với nhánh Môngôlôit ở Cựu lục địa.
Chủng tộc Ơrôpêôit chiếm 48% dân số toàn cầu, mặc dù có tên gọi là loại hình người châu Âu, nhưng thực tế chủng tộc này xuất phát từ châu Á chứ không phải châu Âu.
Người Ơrôpêôit đã mở rộng địa bàn cư trú từ địa phương đầu tiên tại Ấn Độ và lan tỏa sang Tây Á, Bắc Phi và Nam Âu, xung quanh khu vực Địa Trung Hải. Ở phía bắc, con người đã tiến lên cư trú tới bất kỳ nơi nào mà băng tan.
Chủng tộc Ơrôpêôit có địa bàn cư trú rộng khắp, liên quan chặt chẽ đến quá trình thực dân hóa ở châu Mĩ, Ô-xtrây-li-a và nhiều thuộc địa khác của các quốc gia châu Âu.
Chủng tộc Người da đen – Ôxtralôit: Tạo thành 12% dân số toàn cầu, bao gồm hai nhánh phân bố khá xa nhau: Người da đen ở châu Phi và Ôxtralôit ở Nam Ấn Độ, nhiều đảo trên Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, đặc biệt là tại Ô-xtrây-li-a.
Ngoài ba chủng tộc chính, còn có các nhóm người lai, kết quả của sự kết hợp giữa các chủng tộc.
2. Các dân tộc bị tiêu diệt.
Xem clip tại đây:
Chủng người.
Người Heidelberg.
Người Heidelberg đã sống tại châu Phi, châu Âu và Tây Á khoảng 600.000 năm trước đây và được cho là tổ tiên trực tiếp của người Neandertal, một dòng người đã tồn tại ở châu Âu cách đây 40.000 năm.
Người Heidelberg có chiều cao lên tới 1,8 mét và có sự phát triển cơ bắp tốt hơn so với loài người hiện nay.
Người Java.
Marie Eugène François Thomas Dubois (1858-1940) là một nhà địa chất học và sinh vật học người Hà Lan, nổi tiếng với nghiên cứu lịch sử tiến hóa gây tranh cãi cho đến ngày nay.
Ông đưa ra quan điểm trái ngược khi giới khoa học thừa nhận con người có nguồn gốc sâu xa từ một loài linh trưởng ở châu Phi.
Năm 1886, Eugène Dubois, người bị thu hút bởi thuyết tiến hóa của Charles Darwin, quyết định tới châu Á – nơi được coi là cái nôi của loài người – để tìm kiếm tổ tiên của loài người.
Vào năm 1891, nhóm của ông đã khám phá một hóa thạch con người trên đảo Java ở Hà Lan (hiện nay là Indonesia).
Loài trung gian giữa người và khỉ không đuôi được xác định cụ thể dựa trên một xương chỏm (nắp hộp sọ) và một xương đùi giống như của H. Sapiens. Loài này được tìm thấy trên bờ sông Solo ở Trinil, Đông Java.
Phát hiện này được biết đến như là ngôn ngữ lập trình Java.
Homo Rudolfensis.
Homo rudolfensis là một loài người hóa thạch được Bernard Ngeneo, một thành viên của đội khảo cổ do nhà nhân chủng học Richard Leakey và nhà động vật học Meave Leakey dẫn đầu vào năm 1972. Loài này được phát hiện tại Koobi Fora, nằm ở phía đông hồ Rudolf ở Kenya.
Sọ 1470 được đánh giá có tuổi khoảng 1,9 triệu năm. Vào ngày 8 tháng 8 năm 2012, một nhóm khảo cổ do Meave Leakey dẫn đầu đã thông báo về việc phát hiện một khuôn mặt và hai xương hàm thuộc loài H. Rudolfensis.
Có bằng chứng cho thấy một loài người mới đã sống đồng thời với Homo erectus và Homo habilis. Loài này, Homo rudolfensis, có bộ não lớn hơn và khuôn mặt phẳng hơn Homo habilis.
Người Boskop.
Vào đầu thế kỷ 20, có hai nông dân tìm thấy một hóa thạch hộp sọ gần Boskop, Nam Mỹ. Điều đáng chú ý là kích thước của bộ não của loài người chưa từng được biết đến này.
Bộ não của người hiện đại chỉ có kích thước khoảng 1400 cm3, trong khi bộ não của người Boskop đạt tới 1980 cm3, cho thấy giống người này có bộ não rất phát triển và IQ cao.
Bộ não rộng lớn gây ấn tượng.
Ngược lại, khuôn mặt của người Boskop lại rất nhỏ.
Người Denisovans.
Người Denisova là tên được đặt cho một cá thể thuộc chi Người, có thể là một loài trước đây chưa được biết đến, dựa trên phân tích ADN ti thể của nó.
Trong tháng 3 năm 2010, tại hang Denisova ở vùng Altai, Nga, đã phát hiện ra các mảnh xương của người chưa thành niên thuộc giống người này, sống cách đây khoảng 41.000 năm trước. Đáng chú ý là, đây là vùng mà cả người Neanderthal và con người hiện đại từng sống cùng một thời điểm.
MtDNA của người Denisova khác với mtDNA của người Neanderthal và con người hiện đại. Vào tháng 12 năm 2010, một nhóm nhà khoa học quốc tế đã xác định trình tự gen nhân của nhóm này từ xương ngón tay.
Theo phân tích của họ, nhóm này có nguồn gốc chung với người Neanderthal và có sự lai giống với tổ tiên của người Melanesia hiện đại.
Người Dmanisi.
Mới đây, nhà khoa học Thụy Sĩ đã công bố một lời giải mới về nguồn gốc tổ tiên của loài người – người Dmanisi ở châu Phi.
Kết luận này được đưa ra sau khi các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu về cấu trúc xương hàm và sọ của “hộp sọ số 5” được khai quật tại khu vực Dmanisi (Cộng Hòa Georgia) khoảng 1,8 triệu năm trước. Nghiên cứu này đã được thực hiện từ 8 năm trước.
Hộp sọ này có sự kết hợp độc đáo của các hóa thạch loài người từ những thời điểm khác nhau: với phần mặt sọ lớn, não nhỏ và răng lớn giống như những loài người cổ đại, nhưng các nghiên cứu về giải phẫu bên trong hộp sọ cho thấy hệ thống thần kinh lại tương tự như loài người đứng thẳng (Homo erectus).
Các phát hiện gần đây đã phá vỡ giả thuyết này và xác nhận rằng người Dmanisi đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra loài người. Nhóm nghiên cứu cho rằng người Dmanisi có thể là những người đầu tiên xuất hiện trên Trái đất, khoảng 2,4 triệu năm trước, tại Đông Phi.
Người Penghu.
Phần hàm dưới khác biệt rõ ràng so với người Homo erectus ở miền bắc Trung Quốc và Java. Đây có thể là đặc điểm đại diện cho một chủng người chưa được biết đến, theo lời chuyên gia Yousuke Kaifu trích dẫn của CNN. Ông khẳng định rằng dù chỉ là một mẩu hóa thạch nhỏ, nhưng ý nghĩa của nó rất lớn.
Khoa học cho biết trong quá trình tiến hóa, hàm và răng của con người ngày càng nhỏ gọn. Tuy nhiên, răng của Penghu lại dày và có răng hàm lớn, cho thấy nó thuộc một nhóm khác với những hóa thạch cùng thời đại.
Phát hiện này được Live Science cho biết rằng có nhiều chủng người đã tuyệt chủng từng cùng tồn tại tại châu Á trước khi tổ tiên của con người hiện đại xuất hiện tại khu vực này vào khoảng 40.000 năm trước.
Người Naledi.
Homo naledi là một loài đã tuyệt chủng thuộc tông Người, được phát hiện trong hang động Dinaledi của hệ thống hang động Rising Star.
Xương hóa thạch mới được khám phá trong một hang động tại Cái nôi của loài người, Cộng hòa Nam Phi vào năm 2013, đã được xác định là thuộc về một loài mới chưa được đặt tên trong họ Người (Homo).
Trong hang Rising Star, chúng ta đã khám phá một loạt hóa thạch bao gồm xương cốt của trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ, người trưởng thành và người già.
Vòm hang nằm sâu 30 mét dưới di sản thế giới Cái nôi của loài người, cách Johannesburg khoảng 50 km về phía tây bắc, được cho là một nghĩa địa. Các nhà nghiên cứu tin rằng người Homo naledi có thể đã sử dụng lửa để làm sáng đường vào hang.
H.Naledi khi đứng thẳng hai chân có thể đạt chiều cao 1,5m, cao hơn so với phần lớn loài người nguyên thủy.
Chân của H.Naledi dài hơn nhưng nhỏ hơn so với các chủng tộc khác, điều này cho thấy chủng người mới có cân nặng không lớn, chỉ khoảng 45 kg.
H. Naledi có đầu nhỏ và não nhỏ hơn. Bộ não của loài này chỉ lớn hơn một chút so với não tinh tinh và không có sự khác biệt về cơ thể giữa nam và nữ.
Người Hobbit.
Năm 2004, một đội nghiên cứu thông báo một khám phá tuyệt vời của họ trên hòn đảo hẻo lánh của Flores.
Đó là khám phá về một nhóm người đặc biệt: người có chiều cao thấp.
Công cụ đá và lửa có thể được sử dụng bởi bộ não và cơ thể nhỏ. Điều này đã được khám phá tại hang động Liang Bua.
Chiều cao của người Hobbit chỉ khoảng 1,2 mét nhưng có khổ chân quá lớn.
Nhiều chứng cứ khảo cổ đã chứng minh rằng họ đã sử dụng lửa và săn bắn trong quá khứ. Tuy nhiên, do tài nguyên có hạn, chủng người này đã phải thay đổi kích thước để thích nghi với môi trường.
Người Hang động Red Deer.
Các hóa thạch này đã tồn tại từ khoảng 11.500 đến 14.500 năm trước. Chúng được các nhà khoa học tạm gọi là người Red Deer Cave – Hang Nai Đỏ.
Có những hóa thạch được gọi là “người Red Deer” vì chứng cứ cho thấy rằng chúng đã săn bắt và nấu chín hươu đỏ, một loài hươu đã tuyệt chủng, để làm thức ăn trong các hang động Maludong.
Người Red Deer Cave.
Các cá nhân này có hàm răng to, lông mày cao, hộp sọ dày, khuôn mặt rộng và mũi phẳng. Kích thước bộ não của họ trung bình.
Tôi là Nguyễn Văn Sỹ có 15 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thiết kế, thi công đồ nội thất; với niềm đam mê và yêu nghề tôi đã tạo ra những thiết kếtuyệt vời trong phòng khách, phòng bếp, phòng ngủ, sân vườn… Ngoài ra với khả năng nghiên cứu, tìm tòi học hỏi các kiến thức đời sống xã hội và sự kiện, tôi đã đưa ra những kiến thức bổ ích tại website nhaxinhplaza.vn. Hy vọng những kiến thức mà tôi chia sẻ này sẽ giúp ích cho bạn!