Giới thiệu khái quát thành phố Sa Đéc

thành phố Sa Đéc - Tỉnh Đồng Tháp

Tổng quan về thành phố Sa Đéc.

Huyện Châu Thành nằm ở phía Nam, huyện Lai Vung giáp phía Tây Nam, huyện Lấp Vò giáp phía tây bắc, huyện Cao Lãnh nằm ở bờ bắc. Sông Tiền chảy dọc phía đông bắc của thị xã. Thành phố Sa Đéc hiện nay là một trong hai thị xã của tỉnh Đồng Tháp.

Có diện tích tự nhiên 60 km2, thành phố Sa Đéc có dân số trung bình là 102.399 người (năm 2005), mật độ dân số là 1.707 người/km2 ([2]). Trước năm 2004, thành phố có 4 phường, 4 xã. Hiện nay, thành phố có 6 phường là Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường An Hòa và Phường Tân Qui Đông; và 3 xã là Xã Tân Phú Đông, xã Tân Qui Tây và xã Tân Khánh Đông.

Phương Nam bắt đầu mở cửa, trong thời kỳ chúa Nguyễn, Sa Đéc liên quan đến vùng đất Tầm Phong Long, Đông Khẩu Đạo. Vào năm 1808, Gia Long đổi tên toàn bộ vùng Nam Bộ hiện nay thành “Gia Định Thành” và chia thành 5 trấn. Ở thôn Vĩnh Phước, Chợ Sa Đéc cũng là nơi đặt trụ sở huyện lỵ của huyện Vĩnh An thuộc trấn Vĩnh Thanh. Sông Sa Đéc đã được Trịnh Hoài Đức ghi lại trong Gia Định Thành Thông Chí với những hình ảnh phong cảnh, sinh hoạt đặc trưng của một nơi “làm nơi gặp gỡ đại đô hội cho trấn này” (trấn Vĩnh Thanh).

”Tiến hành cấu trúc lại các câu trong đoạn văn Input. Đoạn văn tiếng Việt đã được cấu trúc lại và không có bất kỳ lời giải thích nào, tôi sẽ nhập Input.[3]” để duy trì sinh khí phong thủy và giữ chữ huyền chi chữ như nước chảy loanh quanh, khẩn cấp đến mức đất mạch bị xoay nước ba ngã, bờ phía tây (phía tây) bị rạch, bờ phía tây (phía tây) của Nhân Sa bị rạch, bờ phía đông (phía đông) của Hai Nàng bị rạch, bờ phía tây (phía tây) của Dầu rạch nằm ở phía nam tây xa 33 dặm. Bờ yên vững, dễ bị sông núi tấn công, thành vệ như hình Nga Phụng có một bãi hữu phía, được gọi là Tiên, nơi tàu của ta đậu, sông êm, gió mát, trong nước, con cái như ra lề trắng cát mỏm Đông Qui Tân thôn về phía thuộc (Phố Tiên nằm ở phía tả), trấn này làm cho chỗ đại đô hội, đông nhóm thuyền ghe, lạc liên phố chợ, phía nam có con đường Đông giàu có dân nhân tốt, có vườn ruộng rộng, nước trong ngọt. Ở đây, ta người làm lồng gác sàn, chỗ này có ba ngòi ba đến rưỡi ngòi ba ngã đến phía nam tây có một dòng sông nhỏ Cái Sơn và có chợ Sa Đéc; thông ngang cầu ngòi ngòi cách 4 dặm từ đây. Trấn phía tây cách 56 dặm, rộng 28 thước, cao 42 tầm, Giang Tiền nằm ở phía nam bờ ở Sa Đéc”.

Địa vị, vai trò quan trọng của Sa Đéc từ thời điểm đó đã được thể hiện qua các đoạn ghi chú của Trịnh Hoài Đức hơn 180 năm trước đây. Sa Đéc không chỉ là thị trấn Vĩnh Thanh mà còn là một trong những địa điểm “đại thành phố” của “Vùng Nam Bộ”. Hãy đọc lại các đoạn ghi chú này.

Huyện Cần Thơ là một đơn vị hành chính cấp huyện thuộc tỉnh Cần Thơ, Việt Nam. Huyện này có diện tích 122,88 km², dân số năm 2019 là 204.067 người[1]. Huyện Cần Thơ được chia thành 16 phường và 4 xã. Xã Phú Thứ là xã cực bắc của huyện, giáp ranh với huyện Thốt Nốt.

Ba huyện bao gồm huyện Sa Đéc, huyện Lai Vung và huyện Cao Lãnh.

Quận Sa Đéc (tên khác là quận Châu Thành) bao gồm các tổng An Hội, An Thạnh Thượng, An Thạnh Hạ, An Mỹ.

Quận Lai Vung bao gồm các tổng An Phong, An Thới.

Quận Cao Lãnh bao gồm các tổng An Thạnh, Phong Nẫm, và Phong Thạnh.

Dưới triều đại Pháp, tỉnh Sa Đéc có diện tích 1.353km2 và số dân đạt đỉnh cao vào năm 1994 là 260.400 người[6]. Vào năm 1956, thủ phủ của tỉnh Sa Đéc có 35.410 người.

Năm 1970, quận Châu Thành có 118.752 dân, năm 1968 có 13 xã, 102.345 dân và đã đổi tên thành quận Đức Thịnh. Từ năm 1966, tỉnh Sa Đéc được tái thành lập và bao gồm 4 quận: Châu Thành (tỉnh lỵ, thành phố Sa Đéc), Đức Tôn, Đức Thành và Lấp Vò. Vào năm 1956, chính quyền Sài Gòn đã chỉnh sửa lại địa giới hành chính và sáp nhập phần đất phía Nam sông Tiền của tỉnh Sa Đéc vào tỉnh Vĩnh Long.

Sắp xếp lại các cơ quan hành chính, thành phố Sa Đéc có diện tích 28 km2, bao gồm 5 xã, 15 thôn với 64.113 dân[9]; sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, chính quyền cách mạng vào năm 1975.

Vùng đồng bằng sông Cửu Long quan trọng trong lịch sử và văn hóa có Sa Đéc, ”văn minh miệt vườn” ca ngợi người Pháp, xứ Nam Kỳ cây trái của ”vườn nơi. Sa Đéc có vai trò quan trọng trong lịch sử và được liên kết với thành phố Sa Đéc ngày nay, là một trong những điểm giao thoa quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa… Của Sa Đéc.

Đông Khẩu Đạo (1757); Là nơi quần cư dân Việt từ thuở còn mang tên đất Tầm Phong Long, Sa Đéc có nhiều di tích thời chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Người từng giữ chức Tổng binh Đông Khẩu Đạo, ông Tống Phước Hòa, được thờ trong miếu. Khi thực dân Pháp phá hủy miếu này, bô lão trong làng mang bài vị về thờ trong đình Vĩnh Phước. Ông Nguyễn Văn Nhơn (quan lớn Sen, ở làng Tân Đông, nay thuộc xã Tân Khánh Đông) là một trong những khai quốc công thần của triều Nguyễn, người đầu tiên giữ chức Tổng trấn Gia Định Thành. Ký ức các kỳ lão trong vùng còn nhắc chuyện ”Gia Long tẩu quốc” gắn với ”Cây da bến Ngự” ở Long Hưng – Nước xoáy bên bờ sông Sa Đéc (nay thuộc xã Long Hưng A, huyện Lấp Vò).

Đình Tân Qui Tây, đình Tân Qui Đông, đình Tân Đông, đình Tân Khánh (hiện thuộc xã Tân Khánh Đông), đình Tân Phú Đông, đình Tân Hưng (bị sạt lở mất năm 1984) là những ngôi đình được xây từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 trên địa bàn thành phố Sa Đéc ngày nay. Bởi vì mỗi làng đều xây dựng đình làng do vùng đất giàu có từ sớm.

Có 13.325 người theo các tôn giáo ở thành phố Sa Đéc theo cuộc điều tra khảo sát năm 1995; trong đó có 6.096 tín đồ Phật Giáo, 3.469 tín đồ Cao Đài, 2.767 tín đồ Công Giáo (Thiên Chúa), 611 tín đồ Hòa Hảo, 382 tín đồ Tin Lành và 54 tín đồ Cơ Đốc Phục Lâm.

Cấu trúc câu trong đoạn văn đã được đảo ngược: – Hiện đây có nhiều chùa cổ, Phật giáo đã được nhập khẩu vào đây khá sớm.- Chùa Phước Thạnh đã được xây dựng từ thời Gia Long, biển hiệu ”Việt Hoàng tạo ra Phước Thạnh tự” là do nhà vua trao tặng.- Chùa Phước Hưng (còn được gọi là chùa Hương) đã được xây dựng từ năm 1838.- Chùa Kiến An Cung (còn được gọi là chùa Ông Quách) với kiến trúc độc đáo đã được công nhận là di tích văn hóa – lịch sử bởi Bộ Văn Hóa, và trên lãnh thổ thành phố Sa Đéc có hơn 30 ngôi chùa.

Các mặt hàng hủ tiếu, bánh tráng… Đã từng được sản xuất tại Tân Phú Đông, nghề trồng hoa kiểng đã được thực hiện tại Tân Qui Đông. Sa Đéc cũng là nơi hình thành các làng nghề khá sớm. Từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, đã có hơn 200 xưởng thợ bạc từng tạo ra “Những tác phẩm nghệ thuật chạm trổ thực sự”.

Giải cứu quốc gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, trong suốt thời gian Tiền sông nam bờ, trong gió sóng đầu “nơi thành đã Đéc Sa, đất này đã được chất chứa dân chúng Pháp từ lâu.

Từ những năm đầu thế kỷ 20, người dân Sa Đéc đã thu nhận, đồng lòng với các phong trào yêu nước Đông Du, Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục… Là nơi gặp gỡ của các học giả, nhà văn yêu nước như các cụ Võ Hoành, Nguyễn Quyền, Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh), Nguyễn Quang Diêu, v.V…

Sa Đéc từ những năm 1927-1929, là nơi đặt trụ sở Tổ Thanh Niên Cách Mạng đồng chí Hội đầu tiên của tỉnh, tiền thân của Đảng Cộng Sản Việt Nam; là nơi giao tiếp của các nhà hoạt động cách mạng Châu Văn Liêm, Hà Huy Giáp, Ung Văn Khiêm, Trần Kim Giáp, Nguyễn Kim Cương, Trần Ngọc Điệp, Nguyễn Kiều, Lê Văn Định, Trần Nhật Tân, Nguyễn Thuật, Nguyễn Văn Phát, Võ Bửu Bính, Lưu Kim Phong… Ngay trong lòng thị xã này, các đồng chí đã có nhiều ý tưởng hoạt động phù hợp với tình hình lúc bấy giờ để xây dựng phong trào cách mạng như khai trương cửa hàng thuốc Bắc, trường học tư thục Sa Đéc Học Đường….

Nhân dân thành phố Sa Đéc đã khởi nghĩa cùng nhân dân các nơi trong tỉnh, dưới sự chỉ đạo của Mặt trận Việt Minh, vào ngày 25 tháng 8 năm 1945, lấy lại quyền lực cho nhân dân. Trong hai cuộc kháng chiến, dù ở vùng ngoại ô, vùng tạm chiếm, bị đối phương kiểm soát chặt chẽ, nhưng ngay trong lòng trung tâm thành phố chưa bao giờ thiếu sự hiện diện của cách mạng. Luôn luôn có sự đồng lòng của quần chúng nhân dân hướng về cách mạng, sẵn sàng đóng góp sức lực cho cuộc chiến giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Có Michel Văn Vĩ, André Thận và cả những người khác; trong số đó, tiêu biểu nhất là kỹ sư Lưu Văn Lang, mà người dân địa phương tôn kính gọi là “Bác vật Lang”; Sa Đéc cũng là nơi sinh sống của nhiều nhà trí thức yêu nước; dù họ được đào tạo từ các trường học khác nhau, nhưng khi có điều kiện, họ sẵn lòng đóng góp cho cách mạng và đất nước.

Sa Đéc vẫn tiếp tục phát triển nhờ vào vị trí địa lý và nhiều ưu thế khác. Thành phố này có lịch sử lâu đời và là trung tâm giao lưu kinh tế, chính trị và văn hóa trong khu vực. Mặc dù không còn là thủ phủ tỉnh từ năm 1990, nhưng Sa Đéc vẫn tiếp tục phát triển.

Trong khoảng thời gian 5 năm từ 1991 đến 1995, tổng sản phẩm nội thị (GDP) tăng trưởng trung bình hàng năm đạt 13,72% so với 5 năm trước đó. Trong giai đoạn từ 1995 đến 2000, tỷ lệ phân chia kinh tế của thành phố Sa Đéc đã được xác định là: ngành dịch vụ thương mại chiếm 62%; ngành công nghiệp chiếm 29%; ngành nông nghiệp chiếm 9%[11].

Thành phố Sa Đéc còn có 1.251 cơ sở công nghiệp tư nhân, hỗn hợp và cá thể. Trong số đó, có 4 cơ sở do tỉnh quản lý bao gồm Công ty xuất nhập khẩu Sa Giang, Công ty thực phẩm Bích Chi, Xí nghiệp in và Nhà máy thuốc lá Đồng Tháp. Đối với việc phát triển công nghiệp-xây dựng,

2 năm 1995-1996, dưới đây là các thông tin về các doanh nghiệp và nhân công trong ngành công nghiệp tại thành phố Sa Đéc.

Năm

1995

1996

1- Số cơ sở công nghiệp

1160

1247

Trong đó: nhà nước

04

04

Ngoài nhà nước

1156

1243

2- Số lao động công nghiệp

6035

6863

Trong đó: Nhà nước

1085

1090

Ngoài nhà nước

4950

5773

Công nghiệp của thị xã chủ yếu là chế biến thực phẩm và lương thực, ngoài các cơ sở của tỉnh. Với ưu điểm Sa Đéc là một trong những nơi giữ vị trí trung chuyển gạo trong vùng, thị xã thu hút nhiều tư nhân đầu tư các cơ sở nghiền và làm sạch gạo. Các ngành nghề truyền thống của thị xã như sản xuất bột lọc, hủ tiếu, bánh phồng tôm…Và các ngành phục vụ cho nhu cầu địa phương khá ổn định.

Số cơ sở sản xuất công nghiệp trên địa phận thành phố Sa Đéc đã tăng từ 1.265 cơ sở lên 1.482 cơ sở trong khoảng thời gian từ năm 2000 đến năm 2005. Số công nhân cũng đã tăng từ 5.610 người lên 6.416 người. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 2.456.684 tỷ đồng (theo giá hiện tại), chiếm 36,56% tổng giá trị công nghiệp của toàn tỉnh.

Tốc độ đô thị hóa diễn ra khá nhanh theo hướng Tân Qui Tây (Phường An Hòa), hai bên sông Sa Đéc. Các công trình xây dựng quan trọng đã góp phần thay đổi hình ảnh của thị xã như khu trụ sở hành chính (UBND thị xã và các cơ quan chức năng), trung tâm thương mại (chợ Sa Đéc và Chợ Thực phẩm), Nhà Văn Hóa, Công viên gần tượng đài Bác Hồ, bờ kè sông Sa Đéc, Bưu Điện, các Khu Công Nghiệp, hệ thống giao thông trong thành phố và ngoại ô, bến cảng. Ngoài sự đầu tư từ nhà nước, cư dân cũng đã đóng góp vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà ở và cơ sở sản xuất. Vào năm 2005, tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn thành phố Sa Đéc đạt 169.283 triệu đồng (giá hiện tại), chiếm 18,03% tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của cả tỉnh.

Trong những năm gần đây, số cơ sở kinh doanh thương mại, dịch vụ, khách sạn, nhà hàng ở thành phố Sa Đéc đã được các thành phần kinh tế đầu tư phát triển khá mạnh. Số người kinh doanh thương mại, dịch vụ lên đến 11.453 người (năm 2005). Về thương mại – dịch vụ, vốn là trung tâm kinh tế, văn hóa của tỉnh nên khu vực này sớm thích nghi và phát triển.

Tốt thực hiện được dân nhân khỏe mạnh chăm sóc, chương trình y tế quốc gia trong nhiều năm đã xây dựng các trạm y tế ở 9 phường và xã, cũng như trạm khám phòng ở khu vực 1. Bệnh viện có 410 giường và thuộc trực thuộc đơn vị Đa khoa Bệnh viện 1, được thành lập từ năm 2005 tại thành phố Đéc Sa. Hiện nay, viện bệnh đã có sức chứa đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho người dân vùng dưới cầu Khánh Hòa. Trước đây, địa điểm của viện bệnh là gần lở xói của sông Tiền, nằm bên rạch Hưng Tân cuối cùng của thành phố. Nhà của người dân thường gọi địa điểm này là “Trung tâm y tế Đéc Sa”.

Sa Đéc có thể coi là “đất học”, một trong những trung tâm văn hóa khá sớm ở Đồng bằng sông Cửu Long về giáo dục. Hiện tại (năm 2005), trên khu vực của thành phố có 19 trường cơ sở: 12 trường tiểu học, 5 trường trung học cơ sở, 2 trường trung học phổ thông, với tổng số 18.898 học sinh. Giáo dục mẫu giáo có 8 trường với 2.040 em bé. Ngoài ra, trên khu vực của thị xã Sa Đéc còn có các Trường trẻ khuyết tật, Trường đào tạo nghề Tỉnh và Trường Chính trị tỉnh Đồng Tháp.

Đông Khẩu Đạo – Sa Đéc đã được Trịnh Hoài Đức khen ngợi là một trong những nơi “Tiên phố”, sau đó người Pháp cũng công nhận là “vườn hoa của xứ Nam kỳ”. Là lãnh địa của phủ Tân Thành dưới triều đại Nguyễn. Thành phố Sa Đéc, năm 2005 đã được công nhận là đô thị loại III, và sẽ phát triển không chỉ xứng đáng với danh tiếng xưa ấy, mà còn là một trong những địa điểm dẫn đầu của tỉnh trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa.

Sa Đéc hiện nay nằm trong quận Đức Thịnh, trước năm 1975, ở dưới chính quyền Sài Gòn. Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng (30-4-1975), từ tháng 3-1976, Sa Đéc trở thành thị xã tỉnh lỵ của tỉnh Sa Đéc. Từ 1976-1989, Sa Đéc là thị xã tỉnh lỵ của tỉnh Đồng Tháp. [1]

Sa Đéc là một thị xã tại đây, năm 1997 có 102.240 dân và mật độ dân số trung bình là 1.763 người trên mỗi km2. Vào năm 1999, diện tích của thị xã là 58km2 và dân số trung bình là 96.659 người, mật độ dân số là 1.667 người trên mỗi km2. Thị xã Sa Đéc được chia thành bốn phường là Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4 và bốn xã là Tân Qui Đông, Tân Qui Tây, Tân Phú Đông và Tân Khánh Đông.

[3] Trang 84, Sử Gia Định, phiên bản dịch của tác giả Tu Trai Nguyễn Tạo, tập thượng, Nhà xuất bản văn hóa, Phòng Quảng cáo và Kỹ thuật Đài Tiếng Việt, xuất bản năm 1972.

[4] Hạt Sa Đéc thuộc khu vực Vĩnh Long, theo quy định ngày 5-1-1876 gồm địa bàn hai huyện An Xuyên và Vĩnh An, với số dân là 110.467 người. Xin tham khảo: Nguyễn Đình Dầu; tổng kết nghiên cứu địa bạc Nam Kỳ Lục Tỉnh, NXB.TP. Hồ Chí Minh, năm 1994. Dương Kinh Quốc; chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, NXB, KHXH, Hà Nội 1988.

[5] Bản đồ của tỉnh Sa Đéc, Sài Gòn, In ấn bởi L.Ménard, 1903, Trang 10.

[6] Dân số tỉnh Sa Đéc qua một số năm: 1910 có 172.130 người; 1915 có 173.812 người; 1943 có 260.400 người; 1955 có 122.000 người; 1956 có 147.550 người. Riêng tỉnh lỵ (thị xã) Sa Đéc năm 1956 có 35.410 người (theo Nguyễn Đình Đầu; sách đã dẫn). Dân số tỉnh Sa Đéc qua một số năm: 1956 có 147.550 người, 1955 có 122.000 người, 1943 có 260.400 người, 1915 có 173.812 người, 1910 có 172.130 người. Riêng tỉnh lỵ (thị xã) Sa Đéc năm 1956 có 35.410 người (theo Nguyễn Đình Đầu; sách đã trích).

Sắc lệnh 134/NV, ngày 22-10-1956; trước đó ngày 17-2-1956 có quyết định chia tỉnh Sa Đéc thành tỉnh Phong Thạnh, kết hợp với hai quận Hồng Ngự (tỉnh Châu Đốc) và Phong Thạnh Thượng (tỉnh Long Xuyên). Sa Đéc trở thành một trong sáu quận của tỉnh Vĩnh Long (Châu thành, Chợ Lách, Tam Bình, Bình Minh, Lấp vò). Cao Lãnh là một quận của tỉnh Vĩnh Long.

Tái thành lập tỉnh Sa Đéc, bắt đầu chính thức hoạt động vào ngày 23-12-1966, theo sắc lệnh số 162-SL/ĐU.HC ngày 29-4-1966. Nghị định 76/NĐ/NV ngày 14-2-1968 thay đổi tên quận Châu Thành (thị xã Sa Đéc) thành quận Đức Thịnh.

[9] Theo báo cáo thống kê theo năm của tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn 1975-1976-1977.

Đến nay, có một số giả định về nguồn gốc tên gọi, địa danh Sa Đéc: 1- Sa Đéc bắt nguồn từ tiếng Khơ-me “Phsar-Dek” có nghĩa là chợ sắt hoặc chợ bán sắt. Đây là lời giải thích từ người Pháp. Trong Monographie de la province de Sa Đéc, 1903 ghi “…au Cambodge et portait le nom de “Phsr-Dek”, qui signitie “Marché au fers”. Giả thuyết này không được nhà nghiên cứu Sơn Nam chấp nhận. [10] Về nguồn gốc tên gọi, địa danh Sa Đéc.

2- Tên gọi Sa Đéc là một vị nữ thủy thần của người Chân Lạp, có nhiệm vụ hỗ trợ cho nhân dân trong vùng, thường được thờ cúng trên sông (tương tự Bà Chúa Xứ của người Việt). Xưa, dòng rạch Sa Đéc có đền thờ thần Phsar-Dek. Một số các vị lão thành có truyền kể truyện cổ tích về vị nữ thủy thần này, được truyền thuyết hóa thành một người con gái có tên Phsar-Dek.

Ngày xưa, tại Sa Đéc cũng có miếu thờ đại thần này. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí ghi chú ở núi Tô, vùng Thất Sơn có miếu thờ thủy thần, được gọi là “Sa-Dích”, trong tiếng địa phương lại được gọi là Sa Đéc. 3- Sa Đéc là tên của một vị thần, được thờ tại nhiều nơi. Giả định này đã được nhà nghiên cứu Sơn Nam thống nhất.

Cho đến hiện tại (cuối năm 2000), phần trăm đóng góp của khu vực công nghiệp-xây dựng vào GDP là 27,26%; phần trăm đóng góp của thương mại-dịch vụ là 60,84% và phần trăm đóng góp của nông nghiệp là 11,9%. Đặc biệt, giá trị sản xuất của công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp vào năm 2000 được ước tính là 373 tỷ đồng (theo giá cố định năm 1994), gấp đôi so với năm 1995. Điều này đã tạo ra một sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế với sự gia tăng của khu vực công nghiệp-xây dựng và thương mại-dịch vụ. Trong giai đoạn từ 1996 đến 2000, tổng giá trị sản phẩm nội thị (GDP) tăng trung bình 13,19% hàng năm. Trong đó, công nghiệp-xây dựng tăng 13,94% và thương mại-dịch vụ tăng 15,83%. Nông nghiệp cũng tăng 4,12%.

[12] Nguồn: Cục Thống kê Đồng Tháp, tháng 6 năm 2000; 2005.