Giới thiệu khái quát huyện Sông Mã

huyện Sông Mã

Tổng quan về huyện Sông Mã.

Sông Mã là huyện tọa lạc ở phía Tây Nam của tỉnh Sơn La. Độ cao trung bình của huyện là 600 mét so với mực nước biển.

Thị trấn Sông Mã là nơi huyện lỵ đóng đặt. Về tọa độ địa lý, nằm ở vĩ độ bắc từ 20039’33”-21022′ và kinh độ đông từ 103014’56”-104006′. Nằm cạnh bốn hướng: phía Bắc giáp huyện Thuận Châu; phía Nam giáp huyện Mường Ét, tỉnh Hủa Phăn (nước CHDCND Lào) và huyện Sốp Cộp; phía Đông giáp huyện Mai Sơn; phía Tây giáp huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên.

2- Địa hình.

Kéo dài theo con sông Mã, đặc điểm địa hình của Sông Mã khá phức tạp, bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi cao chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam liên tục với các thung lũng và hệ thống sông, suối. Hệ thống núi dọc biên giới Việt – Lào đại diện cho vùng cao của huyện, có độ cao từ 306 – 1819m so với mực nước biển (thấp nhất là cánh đồng Nà Co Nghe, bản Trại Phong, xã Chiềng Cang và cao nhất là đỉnh núi bản Huổi Hưa, xã Mường Cai). Độ dốc chung từ 250-300. Phần lớn là địa hình cao và dốc gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng cơ sở hạ tầng; các khu vực bằng và thung lũng chiếm tỉ lệ nhỏ phân bố rải rác tạo ra tiểu vùng khí hậu phù hợp với nhiều loại cây trồng, con giống khác nhau.

Đường Quốc lộ 4G, sau đó đi theo Quốc lộ 6, từ Hà Nội đến trung tâm huyện Sông Mã có khoảng cách là 300 km. Đường Quốc lộ 4G, đi theo đường Quốc lộ 4G từ Thành phố Sơn La đến trung tâm huyện Sông Mã có khoảng cách là 110 km.

3- Khí hậu, thời tiết.

Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 22 độ Celsius. Tháng 5, 6, 7 là tháng có nhiều ngày nóng, tháng 12 và tháng 1 năm sau là tháng có nhiều ngày lạnh. Tháng 4, 5, 6 là tháng có nhiều ngày nắng. Tháng 6, 7, 8 là tháng có nhiều ngày mưa. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.419 milimét.

Vào ngày 01/9/1975, một trận lũ lịch sử đã xảy ra, làm tăng mực nước lên đến 9,5 m và gây thiệt hại nghiêm trọng cho hệ thống giao thông, cầu đường và hệ thống thuỷ lợi. Nó cũng đã làm sạt lở hoặc chôn vùi một số lượng lớn đất ruộng và cuốn trôi nhiều gia đình. Tình hình giao thông trong khu vực gần như hoàn toàn tê liệt, và chính phủ Trung ương đã phải sử dụng máy bay để vận chuyển hàng cứu trợ cho người dân Sông Mã. Các đặc điểm thời tiết đặc biệt và đặc trưng tại địa phương này là mùa khô kéo dài từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau, chịu ảnh hưởng của gió tây khô nóng. Mặc dù không chịu ảnh hưởng của bão nhiều, nhưng do địa hình phức tạp, các khu vực nhỏ khác nhau có thể gặp phải gió lốc gây thiệt hại cho nền kinh tế và cuộc sống của người dân. Đồng thời, do địa hình đồi núi dốc, khi mưa, đất thường bị xói mòn, rửa trôi, sạt lở và xảy ra lũ ống và lũ quét.

Nguồn nước chính cho sản xuất và sinh hoạt là nguồn nước thiên nhiên. Nguồn nước này được cung cấp từ hệ thống Sông Mã, các con suối nhỏ và nhánh sông phân bố rải rác trên vùng đất này.

4- Diện tích, dân số.

Tổng diện tích tự nhiên của huyện Sông Mã là 163.992,3 ha. Dân số là 142.400 người.

5- Quản lý.

Thị trấn Sông Mã và 18 xã: Mường Sai, Chiềng Khương, Chiềng Cang, Mường Hung, Chiềng Khoong, Mường Cai, Huổi Một, Nậm Mằn, Nà Nghịu, Chiềng Sơ, Nậm Ty, Chiềng Phung, Yên Hưng, Đứa Mòn, Mường Lầm, Chiềng En, Bó Sinh, Pú Bẩu. Huyện Sông Mã có tổng cộng 19 đơn vị hành chính là.

6- Sử học.

* Thời kỳ thuộc địa Pháp (1884-1945):.

Chưa có huyện Sông Mã trong thời kỳ thuộc địa Pháp (trước cách mạng tháng 8/1945), vào thời điểm đó ba vùng đất của Sông Mã thuộc ba châu khác nhau. Vùng Sốp Cộp là một tổng thuộc Mường Thanh (Điện Biên), vùng Mường Lầm thuộc Mường Muổi (Thuận Châu), vùng Mường Hung thuộc Mường Mụa (Mai Sơn).

* Từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến nay:.

Sửa đổi ranh giới hành chính của huyện:.

Châu Sông Mã, nằm trong tỉnh Sơn La, ra đời thông qua việc hợp nhất ba khu vực: Sốp Cộp (trực thuộc Điện Biên), Mường Lầm (thuộc Thuận Châu) và Mường Hung (thuộc Mai Sơn), theo quyết định của Khu ủy Tây Bắc vào ngày 07.3.1953.

Gọi là huyện Sông Mã từ giữa năm 1962 đến nay; từ 1953 đến giữa năm 1962 gọi là châu Sông Mã.

Sáp nhập xã Mường Sai của huyện Mai Sơn vào huyện Sông Mã với diện tích tự nhiên là 3.136 km2 thực hiện Quyết định số 105-CP ngày 13.3.1979 của Ban Chấp hành Chính phủ.

Hiện tại, khu vực Sông Mã hiện có diện tích tự nhiên tổng cộng là 163.992,3 ha và còn tồn tại 19 đơn vị hành chính. Để thành lập huyện Sốp Cộp, việc điều chỉnh địa giới của huyện Sông Mã đã được thực hiện theo Nghị định số 148/2003/NĐ-CP ngày 02/12/2003 của Chính phủ.

Thay đổi ranh giới, tên gọi các cơ quan thuộc về:.

Châu Sông Mã di chuyển từ bản Lấu Ngày (xã Mường Lầm) về khu cánh kiến (nay thuộc xã Nà Nghịu) vào tháng 3/1953 và di chuyển trung tâm từ khu cánh kiến (nay thuộc xã Nà Nghịu) về địa điểm mới (Thị trấn hiện nay) vào đầu năm 1976.

Giải thể làm tan rã xã Mường Cai thuộc khu vực châu Sông Mã và hợp nhất bản Co Phương vào xã Mường Và, các bản Huối Co, Na Don, Hin Khoang và bản Hin vào xã Chiềng Không, các bản Mường Cai, Huối Khe và Huối Sum vào xã Mường Lạn.- Thực hiện Quyết định số 173-CP vào ngày 26.10.1961 của Hội đồng Chính phủ.

Thành lập Thị trấn Sông Mã nằm trong huyện Sông Mã, thực hiện Quyết định số 13-BT ngày 13.4.1977 của Bộ trưởng Phủ Thủ tướng.

Thực hiện Quyết định số 130-BT ngày 25.7.1978 của Bộ trưởng Phủ Thủ tướng, xã Chiềng Ban được thay đổi tên thành xã Nậm Lạnh, xã Chiềng Đen được thay đổi tên thành xã Nậm Ty, xã Pắc Ma được thay đổi tên thành xã Bó Sinh.

Thực hiện Quyết định số 18-CP ngày 16.01.1979 của Hội đồng Chính phủ, để thành lập một xã mới mang tên xã Mường Cai, cắt một số khu vực thuộc các xã Sốp Cộp, Chiềng Khoong, Mường Và, Mường Lạn thuộc huyện Sông Mã.

Tách xã Púng Bánh thành hai xã: Púng Bánh và Sam Kha, thực hiện Quyết định số 04/HĐBT ngày 11.01.1986 của Hội đồng Bộ trưởng.

7- Di vật lịch sử.

Cấp tỉnh lịch sử – Văn hoá di tích hạng xếp nhận công được lịch Sông Mã Huyện 02:.

Quyết định số 1214/QĐ-UBND ngày 28.4.2006 của UBND tỉnh Sơn La về việc đánh giá Di tích Lịch sử – Văn hoá cấp tỉnh công nhận Di tích Cây đa Mường Hung.

Quyết định số 2636/QĐ-UBND ngày 11.11.2011 của UBND tỉnh Sơn La đã xếp hạng Di tích Lịch sử – Văn hoá và danh lam thắng cảnh cấp tỉnh công nhận Di tích Đền thờ Hai Bà Trưng (bản Nam Tiến, xã Chiềng Khương).- Cấp tỉnh công nhận Di tích Đền thờ Hai Bà Trưng (bản Nam Tiến, xã Chiềng Khương) xếp hạng Di tích Lịch sử – Văn hoá theo Quyết định số 2636/QĐ-UBND ngày 11.11.2011 của UBND tỉnh Sơn La và danh lam thắng cảnh cấp tỉnh.

8- Kinh tế – xã hội.

Các dự án nuôi và bảo vệ vốn rừng, tái sinh môi trường được quan tâm thực hiện. Nhiều mô hình kinh tế trang trại, chăn nuôi tập trung, bán công nghiệp có hiệu quả đang hình thành và mở rộng. Diện tích cây ăn quả được duy trì và phát triển; chăn nuôi phát triển khá toàn diện và đa dạng. Sản xuất nông nghiệp – lâm nghiệp và kinh tế nông thôn liên tục phát triển khá theo hướng sản xuất hàng hóa. Giá trị tổng sản phẩm huyện Sông Mã năm sau cao hơn năm trước. Kết cấu hạ tầng có nhiều tiến bộ, đóng góp vào sự thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Trong những năm gần đây, kinh tế của huyện Sông Mã luôn tăng trưởng khá; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực; các thành phần kinh tế đều có bước phát triển khá.

Chủ yếu, điểm mạnh về kinh tế của huyện Sông Mã là một số cây trồng có quả, cây lương thực như nhãn, ngô. Bên cạnh đó, còn có một số động vật nuôi như trâu, bò, dê, ba ba gai, cá lăng và một số dịch vụ.

Chủ yếu ở huyện Sông Mã hiện tại, các lĩnh vực phát triển mạnh mẽ bao gồm Nông – Lâm nghiệp, công nghiệp – xây dựng và chế biến sản phẩm nông nghiệp như: Quả nhãn, bắp ngô.

Điều kiện tự nhiên huyện sông Mã

Có thể xây dựng thành các điểm du lịch, đặc biệt là quần thể động Ten Ư (Chiềng Sơ) bao gồm 36 hang động đẹp, Huyện Sông Mã có dòng sông Mã, núi mường hung, có bài hát ”Tình ca Tây Bắc”, nơi này có nhiều suối nước nóng, nhiều hang động đẹp.

Huyện Sông Mã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đầu nguồn, ngoài ý nghĩa cảnh quan, môi trường sinh thái, quốc phòng, an ninh khu vực. Huyện có địa hình bị chia cắt mạnh và phức tạp, có độ cao trung bình 600 m so với mặt biển. Nằm trên khối núi giữa Thuận Châu và Sốp Cộp và dãy núi biên giới Việt – Lào, dãy núi chạy dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Địa hình chia cắt phức tạp, có nhiều dãy núi cao tạo nên hình khe suối khá sâu và hẹp, độ cao trung bình từ 1.000 m đến 1.500 m. Độ dốc bình quân 200-300 địa hình hiểm trở, đi lại khó khăn, có độ nghiêng dồn theo hướng Nam xuôi theo dòng Sông Mã, dọc Sông Mã theo hướng Tây Bắc có các khe suối Nậm Sọi, Nặm Công, Nậm Mừ, Nậm Con và Nậm Huổi Tinh; dọc sông theo hướng Đông Bắc có suối Nậm Lẹ, Nậm Ty, Nậm Và, Nậm Phống chảy đổ ra Sông Mã.

Đất dốc chiếm phần lớn diện tích còn lại, chiếm tỷ lệ cao trong diện tích đất nông nghiệp. Đất để làm ruộng nước chiếm 1.700ha, tỷ lệ là 0,9% diện tích đất nông nghiệp. Diện tích đất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp là 22.545ha, chiếm 13,82% tổng diện tích tự nhiên.

Diện tích đất có rừng là 55.814ha, chiếm 34% tổng diện tích đất tự nhiên, trong khi diện tích đất chưa sử dụng là 93.364 ha, chiếm 57,23%.

Huyện Sông Mã với công tác bảo tồn các di tích lịch sử văn hoá

Hiện tại, Huyện Sông Mã có 2 địa điểm đã được Ủy ban nhân dân Tỉnh Sơn La xếp hạng di tích lịch sử văn hoá. Đó là cây đa Mường Hung ở xã Mường Hung và đền thờ Hai Bà Trưng ở xã Chiềng Khương.

Phong trào lật đổ chính quyền tay sai của đế quốc Pháp, cùng sự hợp tác giữa nhân dân và du kích địa phương với lực lượng quân đội chủ lực đã tiến hành tấn công và tiêu diệt căn cứ Mường Hung. Vào tháng 1 năm 1952, chiến dịch Sông Mã đã diễn ra, đánh tan hệ thống phòng thủ của đối thủ và mở đường biên giới Việt Lào. Trong quá trình đó, các cơ sở cách mạng đã được xây dựng từ tháng 11 năm 1949. Với lòng yêu nước và sự căm thù sâu sắc với kẻ thù, cán bộ và nhân dân Mường Hung đã một lòng ủng hộ đảng và kháng chiến. Những hành động tàn ác của thực dân đã bắt giữ hai đồng chí Lò Văn Địa và Cầm Văn Lún, sau đó hành quyết bằng cách đốt sống dưới gốc cây đa, trước sự chứng kiến của nhiều người dân địa phương. Nhưng điều này không làm cho người dân Mường Hung sợ hãi, mà ngược lại còn tạo ra mối hận thù và thổi bùng lên ngọn lửa của cuộc đấu tranh cách mạng. Trong giai đoạn kháng chiến chống đế quốc Pháp, trung tâm xã Mường Hung hiện nay đã trở thành đối tượng được địch chọn để xây dựng căn cứ quân sự với các tường rào, dây thép gai và lô cốt. Đối thủ liên tục tổ chức các đợt tuần tra, quét sạch, bắt giữ, tra tấn cán bộ, du kích và những người tham gia cuộc kháng chiến, và chúng sử dụng nhiều phương pháp giết người vô cùng tàn bạo. Khi đến tham quan di tích cây đa Mường Hung vào một buổi sáng nắng, chúng tôi đã chứng kiến hình ảnh của các cựu chiến binh, cô giáo và học sinh trường tiểu học Mường Hung đang tổ chức cho các em tham quan và giáo dục về lịch sử truyền thống.

Ở địa phương, người dân thường xuyên đến dâng hương và làm sạch tại cây đa và bia tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ đã dũng cảm hy sinh trong các ngày lễ, tết. Đồng thời, cộng đồng cũng thực hiện tốt công việc thông qua việc giảng dạy lịch sử để nâng cao nhận thức của thế hệ trẻ về việc bảo tồn di tích lịch sử và văn hoá ở địa phương. Vào năm 2013, huyện Sông Mã đã hợp tác với Sở Văn Hoá, Thể Thao và Du Lịch cũng như Bảo tàng tỉnh Sơn La để xây dựng kè chống sạt lở gốc cây đa bên bờ sông. Năm 2012, huyện đã giao Trường THPT Sông Mã phối hợp với UBND xã Mường Hung chăm sóc di tích lịch sử. Sau khi tổ chức lễ đón nhận bằng công nhận, UBND huyện Sông Mã đã giao quyền quản lý cây đa cho xã Mường Hung. Vào ngày 28/4/2006, cây đa Mường Hung đã được UBND tỉnh Sơn La xếp hạng di tích lịch sử và văn hoá cấp tỉnh, thành phố. Cây đa đóng vai trò là một minh chứng phản ánh tội ác của thực dân Pháp và bọn tay sai, đồng thời cũng là biểu tượng của lòng yêu nước, sự kiên trung bất khuất đối với Đảng và cách mạng của người dân Mường Hung cũng như người dân các dân tộc ở Sơn La nói chung.

Năm 1975, 21 hộ dân làng Nại Tử lên xây dựng khu kinh tế mới tại xã Chiềng Khương huyện Sông Mã, làng Nại Tử lúc này đổi thành Bản Nam Tiến, được sự quan tâm của cấp ủy chính quyền hai tỉnh Hà Tây cũ và Tỉnh Sơn La, đã tạo điều kiện và quan tâm đến đời sống tinh thần và tín ngưỡng của người dân, đồng thời tỏ lòng tôn kính và biết ơn sâu sắc tới các anh hùng dân tộc, ngôi đền đã được chuyển lên vào cuối năm 1975. Cách di tích cây đa Mường Hung khoảng chừng 15 km xuôi theo dòng Sông Mã là ngôi đền thờ Hai Bà Trưng tại bản Nam Tiến xã Chiềng Khương cũng đã được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Được biết, ngôi đền vẫn còn lưu giữ được nhiều di vật có từ hàng trăm năm như: Hoành phi, câu đối, trống, tráp đựng mũ, chiêng, … Và đặc biệt là văn bản 6 bản sắc phong thời Nguyễn vẫn còn nguyên vẹn. Các sắc phong nguyên văn chữ Hán đã được cán bộ của Viện Nghiên cứu Hán Nôm dịch sang tiếng việt, với nội dung chính là: Cho phép dân làng được thờ phụng để ghi nhớ công đức của 2 bà Trưng. Sắc phong lâu đời nhất được vua Tự Đức đời thứ 6 sắc phong Ngày 11 tháng Giêng năm 1853, Sắc phong gần đây nhất được vua Khải Định đời thứ 9 sắc phong Ngày 25 tháng 7 năm (1924).

Hiện tại, di tích đã được đầu tư nâng cấp để trở nên tươi đẹp hơn. Một ban quản lý đền thờ đã được thành lập, bao gồm 7 thành viên. Trong số họ có ông chủ sở hữu, người làng Nại Tử trước đây, được cơ quan chính quyền và cư dân tin tưởng ủy thác để trông coi và đón tiếp du khách, tổ chức các hoạt động tưởng nhớ công ơn của hai bà Trưng. Ngoài ra, đền thờ còn phục vụ nhu cầu văn hóa tín ngưỡng và văn hóa dân gian của người dân, đồng thời góp phần bảo tồn và phát huy di sản của dân tộc. Hàng năm, vào những ngày kỷ niệm ngày sinh và ngày mất của hai bà Trưng, cùng với ông Thi Sách chồng bà Trưng Trắc, cư dân địa phương mang lễ đến đền thờ và tổ chức lễ hội từ ngày 12 đến ngày 15 tháng Giêng âm lịch. Mục đích của lễ hội là tưởng nhớ công ơn và ngắm nhìn linh hồn của hai bà Trưng.

Đây cũng là điều kiện để ngôi đền có thể tận dụng giá trị tâm linh, hứa hẹn nhiều thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của địa phương. Đồng thời, di tích đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La ra quyết định công nhận và trao bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh, thành phố. Đóng góp vào việc bảo tồn vốn di sản dân tộc, di tích phát huy giá trị sẵn có, và giới thiệu quảng bá địa danh văn hóa của địa phương đến các tỉnh lân cận, nhằm giao lưu, mở rộng, tiếp xúc văn hóa.

Huyện Sông Mã có những di sản lịch sử văn hoá đặc biệt quan trọng như Cây bàng Mường Hung và Đền thời Hai Bà Trưng. Từ hàng thế kỷ, những địa điểm này đã trở thành nơi sinh hoạt văn hóa, tâm linh của người dân địa phương. Đồng thời, chúng cũng là nơi giáo dục tư duy, đạo đức lối sống cho thế hệ trẻ về đạo lý uống nước nhớ nguồn, lòng tự hào và tự tôn của dân tộc. Nhờ vậy, những giá trị văn hóa vật thể đã được ghi nhớ và phát huy suốt hàng trăm năm qua.