Giải đáp thắc mắc: Phát xít Nhật xâm lược nước ta vào năm nào?

Ngày nào quân thù Nhật Bản xâm lược đất nước chúng ta? – Bài viết dưới đây sẽ giải đáp câu hỏi cho bạn. – Việt Nam trong cuộc chiến thế giới thứ hai là một giai đoạn lịch sử ngắn tại Việt Nam từ khi thế chiến thứ hai bùng nổ cho đến khi cuộc chiến này kết thúc.

Phát xít Nhật chiếm đóng Đông Dương

Việt Nam bị Nhật Bản xâm lược vào ngày 22-9-1940, nhằm xây dựng căn cứ quân sự để chống lại phe Đồng Minh ở Đông Nam Á. Sau khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, Pháp bị Đức Quốc xã chiếm đóng. Tất cả các cuộc nổi dậy và vận động chính trị trong và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đều thất bại để đạt được bất cứ nhượng bộ nào từ chế độ thực dân Pháp. Các phong trào đòi độc lập đã tăng lên ở Việt Nam, đặc biệt trong và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhưng sự bùng phát của Thế chiến thứ hai ngày 1-9-1939 là một sự kiện ảnh hưởng lớn đến lịch sử Việt Nam cũng như việc Pháp chiếm Đà Nẵng năm 1858.

Năm 1954 kéo dài, một cuộc đấu tranh giành độc lập bùng nổ giữa Việt Minh và Pháp. Tuy nhiên, không lâu sau đó, Việt Nam tuyên bố độc lập ngay khi xung đột kết thúc. Sự đầu hàng của Nhật vài tháng sau là một sự kiện Hồ Chí Minh (lúc đó Nguyễn Ái Quốc) đã chờ đợi từ khi Pháp thất bại năm 1940. Nhật Bản lật đổ chính quyền Pháp ở Việt Nam, giam giữ các quan chức cấp cao Pháp và trả lại Việt Nam “tự do” dưới “sự bảo hộ” của Nhật, với Bảo Đại làm Quốc trưởng. Sau khi Việt Nam bị Nhật Bản chiếm đóng vào tháng 3 năm 1945.

Phát xít Nhật chiếm đóng Việt Nam
Phát xít Nhật chiếm đóng Việt Nam

Hải quân và không quân từ các đơn vị hàng không trên tàu mẫu hạm và đảo Hải Nam đã hỗ trợ khi quân đội Nhật dưới sự chỉ huy của Tướng Takuma Nishimura tiến công vào Đông Dương từ ngày 5 tháng 9 năm 1940. Sau đó, Nhật đã yêu cầu chính quyền Vichy Pháp kiểm soát các tuyến giao thông tại Đông Dương để hỗ trợ quân đội Tưởng Giới Thạch, nhưng chính quyền Pháp không đồng ý. Nhật là đồng minh của Đức và Ý, các quốc gia Phát xít.

Chính quyền Vichy Pháp phải đồng ý và bị ép phải ký hiệp ước chấp nhận để quân đội Nhật đóng quân tại Đông Dương và cho phép Nhật sử dụng Đông Dương để chuyển quân và cung cấp lương thực cho cuộc chiến ở phía Trung Hoa và Miến Điện. Hiệp ước chỉ cho phép 6.000 binh lính Nhật đóng quân tại Đông Dương và tối đa 25.000 binh lính Nhật tạm thời đóng quân trên đường di chuyển đến mặt trận bên ngoài Đông Dương. Với quân đội quá yếu, chính quyền Vichy Pháp phải đồng ý và bị ép phải ký hiệp ước chấp nhận để quân đội Nhật đóng quân tại Đông Dương và cho phép Nhật sử dụng Đông Dương để chuyển quân và cung cấp lương thực cho cuộc chiến ở phía Trung Hoa và Miến Điện. Hiệp ước chỉ cho phép 6.000 binh lính Nhật đóng quân tại Đông Dương và tối đa 25.000 binh lính Nhật tạm thời đóng quân trên đường di chuyển đến mặt trận bên ngoài Đông Dương.

Hiệp định mới được ký kết khiến cho quân Nhật bắt đầu đưa Sư đoàn 5 Bộ binh dưới sự chỉ huy của Trung tướng Akihito Nakamura tiến vào Lạng Sơn, mặc dù đã có hiệp định đã ký kết. Trận đánh Lạng Sơn giữa quân đội Nhật và lính người Đông Dương dưới sự chỉ huy của Pháp bắt đầu. Lạng Sơn bị chiếm vào ngày 25 tháng 9, mở đường cho quân Nhật tiến vào Hà Nội. Vào sáng ngày 24 tháng 9, hải quân và không quân Nhật bắt đầu tấn công các vị trí phòng thủ của Pháp xung quanh Hải Phòng. Vào ngày 26 tháng 9, lực lượng bộ binh Nhật đổ bộ và chiếm được Hải Phòng và cuối cùng vào ngày đó, Hà Nội cũng bị chiếm. Từ đó, Nhật chiếm đóng Đông Dương cho đến khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc.

Phát xít Nhật trước nguy cơ buộc phải đầu hàng

Phát xảy xung đột quân sự Thái Bình Dương vào 7 giờ 55 phút sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941 (giờ Hawaii), khi Nhật Bản đột kích thành công Trạm Hải quân Pearl Harbor trên đảo Hawaii, tiêu diệt và làm hỏng 19 tàu chiến và tiêu diệt 2.300 binh sĩ Mỹ.

Phát Xít Nhật xâm lược nước ta vào năm nào?
Phát Xít Nhật xâm lược nước ta vào năm nào?

Chính phủ Nhật Bản đã triển khai các biện pháp chống lại sự can thiệp quyết liệt từ các nước khác, không cho phép họ can thiệp vào việc của công chúng. Sự can thiệp này đã khiến cho lòng động kích và căm phẫn của người dân Mỹ tràn đầy sự sâu sắc. Quốc hội Mỹ đã nhanh chóng từ bỏ lập trường không can thiệp vào công việc của các quốc gia khác, và chính phủ Nhật Bản đã hành động không liêm sỉ và vô động, tương tự như Roosevelt đã thể hiện trong bài phát biểu vào ngày 12 tháng 7. Mỹ đã chứng minh rằng họ chưa bị thiệt hại bởi những cuộc tấn công này.

Mỹ tuyên chiến với Nhật, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt xuất hiện trước cuộc họp Quốc hội vào ngày 8 tháng 12. Ba ngày sau, ông tuyên chiến với Đức và Ý.

Nhật ngây thơ ”đánh thức quốc gia lớn Mỹ” – như lời ta thán của chính đại tướng Tổng chỉ huy Hạm đội Liên hiệp Nhật Yamamoto, người vạch kế hoạch tấn công Trân Châu Cảng. Viên tướng này từng học ở Mỹ nên hiểu rõ tiềm năng kinh tế và quân sự cũng như khoa học kỹ thuật của Mỹ, ông cho rằng Nhật không thể nào đánh bại Mỹ. Phát biểu này khiến ông bị giới quân phiệt Nhật gọi là ”Nhật phản quốc” và đòi xử tử. Mỹ trở thành đất nước tham gia chiến đấu trên cả hai mặt trận châu Âu và châu Á.

Vì giữ quan điểm không rõ ràng về quân chủ Nhật, trong một khoảng thời gian dài Mỹ không chuẩn bị đủ để chiến đấu với Nhật Bản. Vào năm 1941, trên khu vực Thái Bình Dương, Mỹ chỉ có 3 tàu sân bay, 9 tàu chiến đấu, 22 tàu tuần dương và 54 tàu hộ vệ; trong khi đó, Nhật Bản có tương ứng 10, 10, 38 và 113 tàu. Vì vậy, ban đầu quân đội Mỹ phải rút lui chiến thuật.

Được phép giữ lại vị trí Thiên Hoàng, Nhật sẽ đồng ý đầu hàng ngay lập tức. Ngay từ tháng 5, Gore đã đề xuất với Tổng thống Truman rằng chỉ cần Tuyên ngôn này được đưa ra làm điều kiện. Thiên Hoàng là người lãnh đạo cao nhất của quân đội Nhật; từ lâu hoàng tộc Thiên Hoàng đã được người dân Nhật coi là dòng họ thần thánh không thể bị tiêu diệt; việc Thiên Hoàng bị tiêu diệt có nghĩa là nước Nhật bị tiêu diệt.

Nước Mỹ của riêng nó đã thể hiện ý chí biết Nhật phía đối đạt truyền thông để chính thức hình thành dùng Truman nghị đề đành Stimson Thiên Hoàng cải cách giữ đối phản, tranh chi ác tội xử xét ra đòi đều Chính phủ Mỹ trong các chức vụ và Mỹ luận dư ấy đã trở lại như trước đây.

Công bố chính thức vào ngày 26 tháng 7, Tuyên ngôn Potsdam. Hàng triệu tờ thông báo này được in bằng tiếng Nhật và được máy bay của Mỹ thả xuống khắp đất Nhật.

”Chính quyền Nhật phải công bố tất cả quân đội Nhật bị buộc phải đầu hàng ngay lập tức”, Điều 13 trong Tuyên ngôn nói rằng: ”Mọi lựa chọn khác đều sẽ dẫn đến sự tiêu diệt nhanh chóng và hoàn toàn của đất nước Nhật”.