Dư luận Trung Quốc nói gì về Chiến tranh 1979?

Sau 35 năm từ ngày Trung Quốc khởi xướng cuộc chiến tranh biên giới, được gọi là “Chiến tranh phản kích tự vệ” nhằm đáp trả “những hành động khiêu khích chống Trung Quốc” và “ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Campuchia”, ngày càng có nhiều người Trung Quốc, đặc biệt là các học giả và cựu chiến binh đã tham gia cuộc chiến tranh, nhận thức rõ rằng đó là một “cuộc chiến tranh vô nghĩa” diễn ra do những sai lầm của lãnh đạo quốc gia thời đó.

Tiền Phong Chủ nhật giới thiệu cho bạn đọc một số ý kiến nhỏ trong hàng loạt ý kiến đa dạng.

Cuộc chiến tranh đầy tranh cãi đã diễn ra.

Dưới tiêu đề “Cuộc chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam – một cuộc chiến tranh gây tranh cãi”, trang “Tianya.Cn” ngày 6/4/2012 đã đăng bài của tác giả “Tây Hồ kiếm khách”. Tác giả, một cựu binh từng tham gia cuộc chiến tranh 17/2, viết: “Cuộc chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam là một cuộc chiến tranh có vấn đề nghiêm trọng về hoạch định và chỉ huy, cần phải được xem xét lại… Cuộc chiến đó đã gây thiệt hại lớn.”

Dư luận Trung Quốc nói gì về Chiến tranh 1979? ảnh 1

Các binh lính Trung Quốc đang cõng đồng đội bị thương rời khỏi chiến trường.

Quân đội Trung Quốc không có ưu thế về trang bị và chiến thuật; hệ thống hậu cần và tiếp tế đang trong tình trạng hỗn loạn, thiếu sự hiệp đồng giữa bộ binh, xe tăng và mặt đất-trên không, không quân và tên lửa chiến lược không tham chiến; vũ khí nhẹ mà quân lính sử dụng đã quá cũ, không thực hiện được áp chế hỏa lực.

Sĩ quan chỉ huy trên chiến trường hầu như không biết cách làm việc hợp tác với binh chủng khác nhau. Ngay cả bộ thống soái cao nhất cũng không có chiến lược rõ ràng; chiến tranh không đạt được mục tiêu “trừng phạt Việt Nam, phá hủy tiềm lực và tài nguyên, gây tổn thương cho quân chủ và chiến lược quân sự”, cũng không thực hiện được mục tiêu chiến lược chính trị “làm Việt Nam suy yếu, giúp chính phủ mới ủng hộ Trung Quốc tiếp quản quyền lực”. Tuy nhiên, mục tiêu chính trị quan trọng nhất trong nước, đó là giải quyết vấn đề quyền chỉ huy quân đội, đã được giải quyết một cách thuận lợi.

Tác giả đề cập đến “11 vấn đề trong cuộc chiến tranh cần được làm rõ” và trong đó có một số vấn đề quan trọng sau đây:

1. Nguyên nhân gây chiến tranh vẫn chưa được giải thích rõ ràng và khiến mọi người hoài nghi. Thậm chí, Trương Thắng, con trai nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Trương Ái Bình, đã thừa nhận trong hai cuốn sách của mình rằng Bộ trưởng Quốc phòng khi đó cũng không rõ vì sao chúng ta phải tiến hành cuộc chiến tranh đó.

2. Mục tiêu chiến lược cơ bản không thể đạt được.

3. Các trang bị tiên tiến được sắp xếp chỉ là vật liệu vô dụng. Dù đã có sẵn những máy bay, xe tăng, và tên lửa hiện đại, nhưng vì sự thiếu hiểu biết về chiến thuật và tình hình chiến đấu hợp tác, những trang bị đó trở thành những món đồ không cần thiết. Một chiếc máy bay có thể giải quyết vấn đề phong tỏa, nhưng lại đòi hỏi cả một binh đoàn để triển khai, vi phạm quan niệm về giá trị trong chiến tranh.

4. Tấn công thiếu sự tổ chức. Ngay khi bắt đầu trận chiến, quân đội đã tấn công một cách vội vã. Khi tôi đứng ở độ cao 796, tôi nhìn xa và thấy khắp mặt đất đều là binh lính của chúng ta. Tôi tức giận và nói với Tham mưu trưởng: “Ngay cả tìm một đứa trẻ trong làng cũng chẳng thể tìm được chỉ huy tệ hại như thế”. Một quả pháo và một loạt đạn từ đối phương đã tiêu diệt một khu vực lớn của binh lính của chúng ta.

5. Trên chiến trường liên tiếp xảy ra hiện tượng đáng thương. Nhằm tránh chiến tranh, một số binh lính đã tự bắn vào chân mình sau khi vượt biên và xâm lược nước khác.

6. Chế độ bồi thường cho lính bị thương đã lỗi thời. Sau khi gặp chấn thương, tôi chỉ được cấp 15 tệ, tức là mức kháng chiến Nhật Bản. Đến năm 2010, sau 31 năm, tôi chỉ nhận được 300 tệ tiền trợ cấp thương tật, tức là trung bình 30 tệ mỗi năm. Đáng tiếc là tiền trợ cấp cho gia đình của lính tử trận chỉ bằng giá một con lợn: 300 tệ….

Cuộc chiến tranh vô nghĩa và kỳ quặc đang diễn ra.

Đó là tiêu đề bài viết của một cựu binh đăng trên trang web Thiết Huyết (Tiexue.Net) vào ngày 18/7/2013. Tác giả viết rằng: “Chiến tranh Triều Tiên đã mang lại lợi ích cho chúng ta bằng cách kìm chế quân Mỹ ở phía Nam tại đường kinh tuyến 38; và trong chiến tranh Giải phóng, chúng ta đã giải phóng được đất liền Trung Quốc. Tôi thực sự không thể hiểu được rằng trong cuộc chiến tranh kỳ lạ năm 1979, Trung Quốc đã đạt được điều gì? Không có gì cả!”.

Dưới tiêu đề “Nhìn lại cuộc chiến phản kích tự vệ chống Việt Nam”, tác giả Thường Thanh đã viết trên trang web “Botanwang.Com” vào ngày 30/5/2013 rằng cuộc chiến phản kích tự vệ chống Việt Nam có thể được coi là cuộc chiến khiến người Trung Quốc khó mở miệng nhất về sự thật trong tất cả các cuộc chiến tranh đối ngoại từ năm 1949…

Sau khi cuộc chiến kết thúc, nhiều người đã có những suy nghĩ khác về giá trị của nó so với chính quyền. Ban đầu, khi xem trên màn hình tivi hàng ngũ binh lính Trung Quốc tuổi 18-20 tiến về tiền tuyến, mọi người không khỏi ngạc nhiên. Sau đó, họ lại chứng kiến hàng vạn ngôi mộ liệt sĩ sắp xếp gọn gàng ở các nghĩa trang biên giới Tây Nam, và cảm thấy đau xót vô cùng. Tuy nhiên, điều đáng sợ là sau khi cuộc chiến kết thúc, không ai biết và không có sự ăn mừng của cả nước, chỉ biết rằng nó đã kết thúc…

Tôi cho rằng lí do nó kết thúc mà khó mở miệng để nói là vì khó để diễn tả rõ ràng về bản chất của cuộc chiến tranh. Nói một cách đơn giản, “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam” thực tế là việc áp dụng kế “Vây Ngụy cứu Triệu” để cứu quân đội Khmer Đỏ đang bị Việt Nam tấn công.

Tính chất của cuộc chiến tranh đó được xác định bởi tính chất của Khmer Đỏ! Khmer Đỏ là nhóm học trò của Đại cách mạng Văn hóa Trung Quốc, nhưng họ vượt trội hơn, sự tàn bạo của họ đối với dân tộc đã đạt đến đỉnh cao trong lịch sử loài người. Họ đã áp dụng một chính sách khủng bố và diệt chủng tàn bạo….

Theo ước tính khiêm tốn nhất, khoảng từ 1,2 đến 3 triệu người CPC đã mất đi dưới sự trị vì của Khmer Đỏ, chiếm 1/4 dân số toàn quốc, trong đó có 215 ngàn người CPC gốc Hoa và gần như tất cả 20 ngàn người CPC gốc Việt.

Vào ngày 25/12/1978, theo lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc đoàn kết cứu nước CPC, quân tình nguyện Việt Nam đã khởi động cuộc tấn công chống lại chính quyền Khmer Đỏ. Một trong những lý do để Việt Nam tiến công là để giải cứu các người Việt đang sinh sống tại đất nước láng giềng (trong khi các tác giả Trung Quốc chưa đề cập đến cuộc chiến biên giới độc ác mà Khmer Đỏ đã tiến hành chống lại Việt Nam từ năm 1975). Lúc đó, nhân dân CPC không chỉ không chống trả mà còn hướng dẫn quân đội Việt Nam.

Quân đội Việt Nam đã chiếm Phnom Penh vào ngày 7/1/1979 sau chỉ 2 tuần, đánh đổ chế độ tàn bạo của Khmer Đỏ. Điều này chứng tỏ chế độ Khmer Đỏ không được lòng dân.

Tôi thực sự không hiểu trong cuộc chiến tranh kỳ quặc năm 1979, rốt cục Trung Quốc đạt được cái gì? Chả được gì cả!”.

Một cựu binh viết trên báo điện tử thiết huyết

Các năm gần đây, lễ kỷ niệm ngày quân tình nguyện Việt Nam đã tổ chức với sự nhiệt thành, đặc biệt là việc có hàng vạn người Campuchia tham gia ở Phnom Penh. Nhà lãnh đạo Campuchia đã biểu lộ lòng biết ơn đặc biệt đến quân đội Việt Nam vì đã giúp đỡ họ “chấm dứt chương đen tối nhất trong lịch sử đất nước”. Điều này cho thấy hiệu quả khách quan của hành động của quân đội Việt Nam, mà người Trung Quốc đã giải thích là cuộc “xâm lược CPC”.

Cách mà người Campuchia biểu đạt lòng biết ơn đối với Việt Nam trong cuộc “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam” đã đặt ra câu hỏi về tính chính nghĩa của nó.

Thất bại đầy kinh khủng của cuộc chiến.

Trung Quốc đã chuẩn bị cẩn thận và huy động một lực lượng lớn để tham gia vào cuộc chiến tranh ngày 17/2/1979. Lực lượng này bao gồm những quân đoàn tinh nhuệ và được coi là những đơn vị quân đội có khả năng chiến đấu tốt nhất. Theo thông tin chính thức trên báo chí gần đây, quyết định tiến hành “Chiến tranh phản kích tự vệ chống Việt Nam” được đưa ra tại Hội nghị Quân ủy Trung ương vào ngày 7/12/1978 và mệnh lệnh được ban hành vào ngày 8/12.

Theo báo Nhân dân Nhật, đội quân từ phía Quảng Tây do Hứa Thế Hữu chỉ huy bao gồm các quân đoàn 41, 42, 43, 54, 55 và 50 (thiếu sư 149). Đội quân từ phía Vân Nam do Dương Đắc Chí chỉ huy bao gồm các quân đoàn 11, 13, 14 và sư 149/quân đoàn 50 cùng với lực lượng biên phòng và dân binh. Tổng số quân vượt qua biên giới là hơn 500 ngàn, trong đó có 202 ngàn người.

Trong khoảng thời gian chỉ kéo dài 1 tháng từ ngày 17/2 đến 16/3/1979, quân đội Trung Quốc đã tiêu hao tổng cộng 1,06 triệu quả đạn pháo, 23,8 ngàn tấn đạn và 55 triệu viên đạn nhọn. Ngoài ra, 268 xe quân sự (trong đó có 48 xe tăng) đã bị phá hủy hoặc hư hỏng. Trong cuộc chiến này, đã có 8.531 người hy sinh, hơn 23.000 người bị thương và 238 người bị bắt làm tù binh. Mỗi ngày, trung đoàn bị loại khỏi vòng chiến trung bình là 1 đơn vị.

Trung Quốc đã phải kết thúc sớm cuộc chiến do thương vong lớn ngoài dự đoán. Trong 2 ngày đầu, hơn 4.000 quân Trung Quốc đã thiệt mạng, quân y không kịp cứu chữa và nhiều người bị thương chết do không được cấp cứu.

Dựa theo tài liệu nội bộ mới được công bố tại Trung Quốc, giai đoạn tác chiến giằng co được cho là đầy rẫy nguy hiểm với tỷ lệ thương vong cực kỳ cao, thường là 90% đối với các đại đội xung kích. Những đại đội này thường chỉ còn lại hơn chục người sau khi rút quân, và mỗi tiểu đội chỉ còn lại 1-2 người sống sót.

Theo tổng hợp từ báo chí Trung Quốc,