Tỉnh Nghệ An – Người Kể Sử

Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn nhất Việt Nam thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Vinh, nằm cách thủ đô Hà Nội 291 km về phía nam.2 . Trước đây, Nghệ An cùng với Hà Tĩnh có cùng một tên chung là Hoan Châu (thời bắc thuộc), Nghệ An châu (đời nhà Lý, Trần), xứ Nghệ (năm 1490, đời vua Lê Thánh Tông), rồi trấn Nghệ An. Năm 1831, vua Minh Mệnh chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (bắc sông Lam) và Hà Tĩnh (nam sông Lam). Năm 1976 đến 1991, Nghệ An và Hà Tĩnh sáp nhập thành một tỉnh- Nghệ Tĩnh. Từ năm 1991, lại tách ra thành 2 tỉnh là Nghệ An và Hà Tĩnh.

Vị trí địa lý

Nghệ An thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Phía bắc giáp tỉnh Thanh Hóa, phía nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía đông giáp biển Đông, phía tây bắc giáp tỉnh Hủa Phăn (Lào), phía tây giáp tỉnh Xiêng Khoảng (Lào), phía tây nam giáp tỉnh Borikhamxay (Lào).

Hành chính

Nghệ An bao gồm 1 thành phố trực thuộc, 3 thị xã và 17 huyện:

Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Nghệ An Tên Dân số (người)2013 Hành chính Thành phố (1) Vinh 480.000 16 phường, 9 xã Thị xã (3) Cửa Lò 70.398 7 phường Hoàng Mai 105.105 5 phường, 5 xã Thái Hòa 67.427 4 phường, 6 xã Huyện (17) Anh Sơn 113.129 1 thị trấn, 20 xã Con Cuông 68.000 1 thị trấn, 12 xã Diễn Châu 273.556 1 thị trấn, 38 xã Đô Lương 193.890 1 thị trấn, 32 xã Hưng Nguyên 114.210 1 thị trấn, 22 xã Tên Dân số (người)2013 Hành chính Kỳ Sơn 62.300 1 thị trấn, 20 xã Nam Đàn 159.000 1 thị trấn, 23 xã Nghi Lộc 186.439 1 thị trấn, 29 xã Nghĩa Đàn 131.134 1 thị trấn, 24 xã Quế Phong 65.000 1 thị trấn, 13 xã Quỳ Châu 54.236 1 thị trấn, 11 xã Quỳ Hợp 120.000 1 thị trấn, 20 xã Quỳnh Lưu 279.977 1 thị trấn, 32 xã Tân Kỳ 133.300 1 thị trấn, 21 xã Thanh Chương 259.459 1 thị trấn, 39 xã Tương Dương 68.441 1 thị trấn, 17 xã Yên Thành 275.165 1 thị trấn, 38 xã

Nghệ An có 480 đơn vị hành chính cấp xã gồm 431 xã, 32 phường và 17 thị trấn. 40% dân số sống ở đô thị và 60% dân số sống ở nông thôn.

Dân cư

Dân số Nghệ An (theo điều tra dân số ngày 01/04/2009) có 2.912.041 người. Trên toàn tỉnh Nghệ An có nhiều dân tộc cùng sinh sống như người Thái, người Mường bên cạnh dân tộc chính là người Kinh. Cùng thời điểm này Nghệ An có 37 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống.

Dân số tỉnh nghệ an năm 2014

Huyện, Thành, Thị Diện tích_ Area

(km2)

Dân số Mật độ TỔNG SỐ – TOTAL 16 489,97 3 037 440 184 Thành phố Vinh 105,07 314 351 2992 Thị xã Cửa Lò 27,81 54 614 1964 Thị xã Thái Hòa 134,84 63 706 472 Huyện Quế Phong 1890,87 66 480 35 Huyện Quỳ Châu 1057,66 55 630 53 Huyện Kỳ Sơn 2094,34 73 678 35 Huyện Tương Dương 2811,30 72 331 26 Huyện Nghĩa Đàn 617,76 128 098 207 Huyện Quỳ Hợp 942,66 121 646 129 Huyện Quỳnh Lưu 436,16 259 962 596 Huyện Con Cuông 1738,31 68 588 39 Huyện Tân Kỳ 729,18 133 109 183 Huyện Anh Sơn 603,26 104 919 174 Huyện Diễn Châu 305,01 277 411 910 Huyện Yên Thành 547,87 267 972 489 Huyện Đô Lương 350,09 192,199 549 Huyện Thanh Chương 1130,37 221 867 196 Huyện Nghi Lộc 345,89 193 351 559 Huyện Nam Đàn 292,53 155 115 530 Huyện Hưng Nguyên 159,24 112 819 708 Thị xã Hoàng Mai 169,75 99 594 587

Tên gọi

  • Trước thời Hùng Vương, vùng Nghệ An và Hà Tĩnh là nước Việt Thường, quốc gia độc lập cổ đại với kinh đô là vùng chân núi Hồng Lĩnh. Đến thời Hùng Vương nước Việt Thường bị sát nhập thành bộ thứ 15 của Văn Lang.
  • Thời Hùng Vương và An Dương Vương, tỉnh Nghệ An bao gồm bộ Hoài Hoan và phần bắc bộ Cửu Đức.
  • Thời nhà Hán, thuộc huyện Hàm Hoan thuộc quận Cửu Chân.
  • Đời nhà Tấn là quận Cửu Đức.
  • Đời nhà Tùy là Hoan Châu (năm 598); là quận Nhật Nam (605-618)
  • Năm 628 đổi là Đức Châu, rồi lại đổi thành Châu Hoan, lại Châu Diễn.
  • Đời nhà Đường là quận Nam Đức.
  • Thời nhà Ngô, tách ra khỏi quận Cửu Chân đặt làm quận Cửu Đức.
  • Thời nhà Đinh, nhà Tiền Lê gọi là Hoan Châu.
  • Năm 1030 (năm Thiên Thành thứ 3 đời Lý Thái Tông), bắt đầu gọi là châu Nghệ An3 .
  • Năm Long Khánh 3 (1375) đời Trần Duệ Tông đổi Diễn Châu làm lộ Diễn Châu, đổi Hoan Châu làm các lộ Nhật Nam.
  • Năm 1397 đời Trần Thuận Tông đổi trấn Nghệ An làm trấn Lâm An và đổi trấn Diễn Châu làm trấn Vọng Giang.
  • Đời Hồ Hán Thương, năm Khai Đại 1 (1403) đổi trấn Diễn Châu làm phủ Linh Nguyên.
  • Từ năm 1490 gọi là xứ Nghệ An.
  • Thời Tây Sơn, gọi là Nghĩa An trấn.
  • Năm đầu niên hiệu Gia Long lại đặt làm Nghệ An trấn.
  • Năm 1831, vua Minh Mệnh chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (phía Bắc sông Lam); Hà Tĩnh (phía nam sông Lam). Sau đó hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh sáp nhập lại, lấy tên là tỉnh An Tĩnh.
  • Sau năm 1954, tỉnh Nghệ An có tỉnh lị là thị xã Vinh và 12 huyện: Anh Sơn, Con Cuông, Diễn Châu, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Nghi Lộc, Nghĩa Đàn, Quỳ Châu, Quỳnh Lưu, Thanh Chương, Tương Dương, Yên Thành.
  • Ngày 17 tháng 5 năm 1961, chia huyện Tương Dương thành 2 huyện: Tương Dương và Kỳ Sơn.
  • Ngày 19 tháng 4 năm 1963, chia huyện Anh Sơn thành 2 huyện: Anh Sơn và Đô Lương; chia huyện Quỳ Châu (cũ) thành 3 huyện: Quỳ Châu, Quỳ Hợp và Quế Phong; thành lập huyện Tân Kỳ từ một phần 2 huyện Nghĩa Đàn và Anh Sơn; chuyển thị xã Vinh thành thành phố Vinh.
  • Từ năm 1976 đến 1991, Nghệ An và Hà Tĩnh là một tỉnh và được gọi là tỉnh “Nghệ Tĩnh”.
  • Năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh lại tách ra thành Nghệ An và Hà Tĩnh như ngày nay. Khi tách ra, tỉnh Nghệ An có 18 đơn vị hành chính gồm thành phố Vinh (tỉnh lị) và 17 huyện: Anh Sơn, Con Cuông, Diễn Châu, Đô Lương, Hưng Nguyên, Kỳ Sơn, Nam Đàn, Nghi Lộc, Nghĩa Đàn, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Quỳnh Lưu, Tân Kỳ, Thanh Chương, Tương Dương, Yên Thành.4
  • Ngày 29 tháng 8 năm 1994, chia huyện Nghi Lộc thành huyện Nghi Lộc và thị xã Cửa Lò.5
  • Ngày 15 tháng 11 năm 2007, chia huyện Nghĩa Đàn thành huyện Nghĩa Đàn và thị xã Thái Hòa.6
  • Ngày 3 tháng 4 năm 2013, chia huyện Quỳnh Lưu thành huyện Quỳnh Lưu và thị xã Hoàng Mai.7

Lịch sử

Trước thời Hùng Vương, vùng Nghệ An và Hà Tĩnh là nước Việt Thường, kinh đô là vùng chân núi Hồng Lĩnh. Đến thời Hùng Vương nước Việt Thường bị sát nhập thành bộ thứ 15 của Văn Lang.[cần dẫn nguồn]

Từ thế kỷ thứ VIII, Mai Hắc Đế đã phất cao cờ nghĩa, xây thành Vạn An ở Sa Nam (Nam Đàn) để chống lại ách thống trị của nhà Đường.[cần dẫn nguồn]

Năm 1285, trước họa xâm lăng của quân xâm lược Nguyên Mông, vua Trần Nhân Tông đã dựa và nguồn nhân lực hùng hậu của vùng đất này.[cần dẫn nguồn]

Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh, năm 1424, Lê Lợi tiến quân vào xứ Nghệ An lập đại bản doanh ở đây 4 năm. Năm 1535 trong chiến tranh Nam Bắc Triều (Lê- Mạc) Phụng chiếu Thái tông Mạc Đăng Doanh. Mạc Đăng Lượng và em Mạc Đăng Hào tức Mạc Đăng Tuấn sau 1592 đổi tên Hoàng Tuấn Ngạn đưa hơn 1 vạn quân vào trấn thủ đất Hoan châu định đô ở vùng Đô Đặng, tổng Đặng Sơn, huyện Nam Đường. Ngài có công chiêu lập 137 hộ dân, tiền thân các dòng họ Hoàng, Bùi Duy, Hoàng Duy, Nguyễn Đăng, Lê Đăng… ở Tổng Đặng Sơn nay là 3 xã Nam Sơn, Bắc Sơn, Đặng Sơn và để ghi nhớ công đức các triều trước lập Đền Tiên Đô dân làng thờ phụng.

Cuối năm 1788,Nguyễn Huệ trên đường hành quân cấp tốc ra Bắc để đánh đuổi 29 vạn quân Thanh sang xâm chiếm nước ta, ông đã dừng lại ở Nghệ An tuyển thêm 5 vạn quân sĩ và luyện Binh, âm cầu mật đạo Thần Mạc Đăng Lượng Phù hộ đánh thắng quân Thanh ở Đền Tán sơn xã Xuân Hòa Nam đàn sau khi chiến thắng trên đường trở lại Phú Xuân đã phong Mạc Đăng Lượng Thượng Đẳng Phúc Thần.Đầu thế kỷ XX xuất hiện Phan Bội Châu, một con người đầy nhiệt huyết yêu nước, đã bôn ba hải ngoại, với khát vọng tiếp thu cái hay, cái mới, hy vọng cứu nước thắng lợi.

Cùng với Hà Tĩnh, Nghệ An là nơi ghi dấu ấn đầu tiên của truyền thống đấu tranh cách mạng vô sản ở Việt Nam với cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh 1930 – 1931, mở đầu cho cao trào cách mạng vô sản trong cả nước. Trong công cuộc chống Mỹ cứu nước, Nghệ An là quê hương của các phong trào “Tiếng hát át tiếng bom”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Xe chưa qua, nhà không tiếc”, “Tất cả cho miền Nam ruột thịt”.v.v… để góp phần mình cùng cả nước đi đến toàn thắng mùa xuân năm 1975.

Nghệ An có truyền thống hiếu học, có nhiều dòng họ, nhiều làng học nổi tiếng, là cái nôi sản sinh cho đất nước nhiều danh tướng, lương thần, nhiều nhà khoa học, nhà văn hoá có tầm cỡ quốc gia và quốc tế. Số người Nghệ An đậu đại khoa thời phong kiến (tiến sĩ trở lên) xếp thứ 4 toàn quốc (sau Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nội và trên Thanh Hoá, Hà Tĩnh).[cần dẫn nguồn]

Chỉ riêng làng Quỳnh Đôi, dưới thời phong kiến đã có 13 người đậu đại khoa (Phó bảng trở lên), còn cử nhân dưới triều Nguyễn (1807 – 1918) đã có 47 người. Khoa thi Hương Tân Mão (1891), trường Nghệ lấy đậu 20 cử nhân, thì huyện Nam Đàn đã có sáu người đậu; khoa thi năm Giáp Ngọ (1894), trường Nghệ lấy đậu 20 cử nhân, Nam Đàn có tám người đậu; khoa thi hội năm Tân Sửu (1901), cả nước có 22 người đậu tiến sĩ và Phó bảng thì Nam Đàn có ba người là tiến sĩ Nguyễn Đình Điển, Phó bảng Nguyễn Xuân Thưởng và Nguyễn Sinh Sắc.Thời phong kiến Đô Lương có Tiến sĩ Đặng Minh Bích, Tiến sĩ Nguyễn Thái Đễ, Tiến sĩ Nguyễn Nguyên Thành, Ất Tiến sĩ Nguyễn Đăng Quý và (Nghè Giá) Tiến sĩ Nguyễn văn Giá (xã Hội Sơn, Anh Sơn).

Điều kiện tự nhiên

Nghệ An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa rõ rệt hè, đông. Từ tháng 4 đến tháng 8 dương lịch hàng năm, tỉnh chịu ảnh hưởng của gió phơn tây nam khô và nóng. Vào mùa đông, chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc lạnh và ẩm ướt.

  • Diện tích: 16.487 km².
  • Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.670 mm.
  • Nhiệt độ trung bình: 25,2 °C.
  • Số giờ nắng trong năm: 1.420 giờ.
  • Độ ẩm tương đối trung bình: 86-87%.
  • Vĩ độ: 18°33′ đến 19°25′ vĩ bắc.
  • Kinh độ: 102°53′ đến 105°46′ kinh đông.

Nghệ An là một tỉnh có đầy đủ địa hình núi cao, trung du, đồng bằng và ven biển. Phía Tây là dãy núi Bắc Trường Sơn. Tỉnh có 10 huyện miền núi, trong số đó 5 huyện là miền núi cao.8 Các huyện miền núi này tạo thành miền Tây Nghệ An. Có 9 huyện trong số trên nằm trong Khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Các huyện, thị còn lại là trung du và ven biển, trong đó Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, và Cửa Lò giáp biển.

Giao thông

Có quốc lộ 1A,quốc lộ 46,quốc lộ 46B,quốc lộ 7, quốc lộ 15, quốc lộ 48A, quốc lộ 48C, đường Hồ Chí Minh, đường sắt Bắc – Nam, sông Lam đi qua.

Kinh tế

Công nghiệp

Hiện nay ngành công nghiệp của Nghệ An tập trung phát triển ở 3 khu vực là Vinh – Cửa Lò gắn với Khu kinh tế Đông Nam, Khu vực Hoàng Mai và khu vực Phủ Quỳ. Phấn đấu phát triển nhiều ngành công nghiệp có thế mạnh như các ngành chế biến thực phẩm – đồ uống, chế biến thuỷ hải sản, dệt may, vật liệu xây dựng, cơ khí, sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, chế tác đá mỹ nghệ, đá trang trí, sản xuất bao bì, nhựa, giấy…Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2014, tỉnh Nghệ An xếp ở vị trí thứ 28/63 tỉnh thành.9 GDP 2014 đạt gần 8% Thu nhập bình quân đầu người 2014 đạt 29 triệu đồng/ người /năm Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Nghệ An các khu công nghiệp sau:

  • Khu kinh tế Đông Nam
  • Khu công nghiệp đô thị Việt Nam Singapore
  • Khu công nghiệp Bắc Vinh
  • Khu công nghiệp Nam Cấm
  • Khu công nghiệp Nghi Phú
  • Khu công nghiệp Hưng Đông
  • Khu công nghiệp Cửa Lò
  • Khu công nghiệp Hoàng Mai1,2
  • Khu công nghiệp Đông Hồi
  • Khu công nghiệp Phủ Quỳ
  • Khu công nghiệp Tân Thắng
  • khu công nghiệp Diễn Hồng – Diễn Châu

Du lịch

Có bãi tắm Cửa Lò là khu nghỉ mát; Khu du lịch biển diễn Thành, huyện Diễn Châu – một bãi biển hoang sơ và lãng mạn; khu di tích Hồ Chí Minh, khu di tích đền Cuông. Năm 2008, Khu du lịch Bãi Lữ được đưa vào khai thác.

[1]Nghệ An là xứ sở của những lễ hội cổ truyền diễn ra trên sông nước như lễ hội Cầu Ngư, Rước hến, Đua thuyền… Lễ hội làm sống lại những kỳ tích lịch sử được nâng lên thành huyền thoại, giàu chất sử thi, đậm đà tính nhân văn như lễ hội đền Cuông, lễ hội đền Khai Long, lễ hội làng Vạn Lộc, làng Sen, lễ hội đền Quả Sơn. Miền núi có các lễ hội như Hang Bua, lễ hội Xàng Khan, lễ Mừng nhà mới, lễ Uống rượu cần. Lễ hội Đền Tiên Đô (Tiên Đô Miếu) ở Đặng Sơn vào lễ khai hạ mồng 7 tháng giêng và Lễ kỵ nhật 16/6 của 3 thần bản cảnh- Thành Hoàng nơi Thờ Phó Quốc Vương Mạc Đăng Lượng thượng thượng thượng đẳng thần, Binh nhung Đại tướng Hoàng Trần Ích thượng đẳng thần, Hoàng Bá Kỳ Đoan túc tôn thần.

Nghệ An còn lưu giữ được nhiều di tích văn hoá lịch sử, nhiều danh lam thắng cảnh, lễ hội văn hoá truyền thống – đó là những yếu tố thuận lợi giúp cho du lịch Nghệ An phát triển.

Về du lịch biển, Nghệ An có 82 km bờ biển với nhiều bãi tắm đẹp hấp dẫn khách du lịch quốc tế như bãi biển Cửa Lò, Cửa Hội; Nghi Thiết, Bãi Lữ (Nghi Lộc), Quỳnh Bảng, Quỳnh Phương, Quỳnh Nghĩa (Quỳnh Lưu), Diễn Thành (Diễn Châu). Đồng thời Nghệ An rất có lợi thế phát triển du lịch văn hóa. Hiện nay Nghệ An có trên 1 ngàn di tích lịch sử văn hóa, trong đó có gần 200 di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, đặc biệt là Khu di tích Kim Liên, quê hương của Hồ Chí Minh, hàng năm đón xấp xỉ 2 triệu lượt nhân dân và du khách đến tham quan nghiên cứu.

Khu di tích lịch sử Kim Liên, cách trung tâm thành phố Vinh 12 km về phía Tây Nam, là khu di tích tưởng niệm Hồ Chí Minh tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn. Nơi đây gắn với thời niên thiếu của Hồ Chí Minh và còn lưu giữ những kỷ niệm thuở nhỏ của cậu bé Nguyễn Sinh Cung, những dấu tích và những kỷ vật của gia đình.

Làng Sen, quê nội của Hồ Chí Minh, tên chữ là Kim Liên (bông sen vàng). Làng có nhiều hồ thả sen suốt hai bên đường làng. Ngôi nhà của Hồ Chí Minh sống thuở nhỏ dựng bằng tre và gỗ, 5 gian, lợp tranh. Trong nhà có những đồ dùng giống như các gia đình nông dân: phản gỗ, chõng tre, cái võng gai, bàn thờ… Nhà được dựng năm 1901 do công sức và tiền của dân làng góp lại làm tặng ông Nguyễn Sinh Sắc, cha của Hồ Chí Minh khi ông Sắc đỗ Phó Bảng đem lại vinh dự cho cả làng.

Cách làng Sen 2 km là làng Chùa (tên chữ là Hoàng Trù) – quê ngoại của Hồ Chí Minh – và cũng là nơi ông cất tiếng khóc chào đời, được mẹ nuôi dạy những năm ấu thơ.

Khu du lịch thành phố Vinh nằm ở vị trí giao thông thuận tiện, có quốc lộ 1a và tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy qua, có sân bay Vinh nằm cách trung tâm thành phố không xa. Thành phố Vinh còn là đầu mối giao thông quan trọng giữa miền Bắc và miền Nam. Khách đi du lịch theo tuyến quốc lộ 1A ngày càng tăng, lượng du khách đến với Nghệ An theo đó cũng tăng.

Thành phố Vinh từ lâu đã hấp dẫn du khách bởi một quần thể khu du lịch với những nét đặc trưng tiêu biểu của một đô thị xứ Nghệ. Đến với thành phố Vinh, du khách có thể tham gia vào nhiều loại hình du lịch như: du lịch nghiên cứu, du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng.

Cách thành phố Vinh 120 km về phía Tây Nam, Vườn Quốc gia Pù Mát thuộc huyện Con Cuông, nằm trên sườn Đông của dải Trường Sơn, dọc theo biên giới Việt Lào. Nơi đây có một số loài động vật, thực vật quý hiếm cần phải được bảo tồn nghiêm ngặt như: sao la, thỏ vằn, niệc cổ hung và một số loài thực vật như pơ mu, sa mu, sao hải nam… Nơi đây đã được UNESCO đưa vào danh sách các khu dự trữ sinh quyển thế giới với tên gọi Khu dự trữ sinh quyển miền tây Nghệ An. Đến Diễn châu, du khách rẽ về phía tây theo đường 7 về Đặng Sơn thăm Di tích lịch sử quốc gia Nhà thờ họ Hoàng Trần do gia đình cụ Hoàng Quýnh – Nguyễn thị Đào xây dựng lại năm 1884 – gắn với cơ sở hoạt động thời kỳ 1930-1945 hoặc ra thăm Bãi Dâu Ba Ra.

Hiện nay, nhiều tổ chức bảo vệ môi trường thế giới cũng như trong nước, đang có các dự án để bảo tồn và phát triển vườn quốc gia Pù Mát, khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống tạo thành khu du lịch sinh thái hấp dẫn.

Khu du lịch Cửa Lò là điểm du lịch biển hấp dẫn với bãi cát trắng mịn chạy dài gần 10 km, thông ra Hòn Ngư, Hòn Mắt, Đảo Lan Châu e ấp ven bờ như một nét chấm phá của bức tranh thuỷ mạc. Tất cả đã tạo ra cho Cửa Lò có một sức hấp dẫn mạnh mẽ với du khách thập phương.

Nghệ An còn là nơi có nhiều món ăn ngon, đặc sản nổi tiếng: cháo lươn Vinh, cơm lam, nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn, cam xã Đoài… là những sản phẩm du lịch có sức cuốn hút khách du lịch quốc tế và trong nước.

Với nhiều lắm những danh lam thắng cảnh, hệ thống di tích, văn hoá phong phú về số lượng, độc đáo về nội dung, đa dạng về loại hình, Nghệ An đang là miền đất hứa, là địa chỉ du lịch hấp dẫn đối với du khách.

Văn hóa, xã hội

Xứ Nghệ là tên chung của vùng Hoan Châu cũ (bao gồm cả Nghệ An và Hà Tĩnh) từ thời nhà Hậu Lê. Hai tỉnh này cùng chung một vùng văn hóa gọi là văn hóa Lam Hồng, có chung biểu tượng là núi Hồng – sông Lam. Hai tỉnh này có cùng phương ngữ- tiếng Nghệ, cùng kho tàng văn hóa dân gian, cùng ca câu hò ví dặm, cùng uống chung dòng nước sông Lam.

Ngày 27/11, trong kỳ họp lần thứ 9 Ủy ban Liên Chính phủ Công ước UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra tại Pháp, Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc đã chính thức công nhận dân ca ví, dặm Nghệ Tĩnh của Việt Nam là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

Tham khảo

(Nguồn: Wikipedia)