Cho vay nặng lãi là gì? Người vay nặng lãi có bị đi tù không?

Hiện nay, một số cá nhân cũng như tổ chức tín dụng đang cho vay nợ với mức lãi suất rất cao. Người dân khi lâm vào tình cảnh khốn khó, gấp gáp cần tiền thì thường tìm đến các tổ chức, cá nhân có tài chính để vay tiền cho nhanh gọn mà không suy xét tính toán kỹ đến việc lãi suất cho vay là bao nhiêu. Vậy pháp luật quy định như thế nào về vay nặng lãi và người cho vay nặng lãi chịu chế tài xử phạt như thế nào? Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ làm sáng tỏ những vấn đề trên:

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568

1. Cho vay nặng lãi là gì?

Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 01/2021/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 201 của Bộ luật hình sự và việc xét xử vụ án hình sự về tội cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự, cho vay nặng lãi được hiểu là “trường hợp bên cho vay cho bên vay vay tiền với mức lãi suất gấp 05 lần trở lên mức lãi suất cao nhất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.”

Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về lãi suất khi vay nợ như sau:

“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”

Như vậy, theo quy định đúng của pháp luật, các bên khi vay mượn nợ với nhau sẽ tự thỏa thuận về mức lãi suất nhưng tối đa không quá 20% của một năm, tương đương với 1,67% của một tháng. Và nếu như chủ nợ cho vay lãi suất cao quá gấp 5 lần mức tối đa Bộ luật dân sự quy định, tức là từ 100% lãi suất mỗi tháng trở lên là hành vi cho vay nặng lãi. Nếu cho vay bằng tài sản khác ngoài tiền thì khi giải quyết sẽ quy đổi giá trị tài sản đó thành tiền tại thời điểm chủ nợ chuyển giao tài sản vay cho bên người đi vay.

2. Người vay nặng lãi có bị đi tù không?

Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự như sau:

“1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2. Phạm tội thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

Theo quy định của Bộ luật hình sự, một người cho vay nặng lãi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Cụ thể:

Khách thể của tội phạm: tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước về tín dụng mà cụ thể là trật tự trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ; xâm phạm đến lợi ích của công dân

Chủ thể của tội phạm: chủ thể thực hiện hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là người từ đủ 16 tuổi trở lên và phải có đủ năng lực hành vi chịu trách nhiệm hình sự.

Mặt chủ quan của tội phạm: tội phạm được thực hiện theo lỗi cố ý. Người phạm biết rõ hành vi cho vay tiền với lãi suất cao như vậy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật cấm nhưng vì vụ lợi cá nhân vẫn cố tình thực hiện tội phạm. Động cơ phạm tội là vụ lợi nhằm thu lợi bất chính cho bản thân

Mặt khách quan của tội phạm:

* Về hành vi khách quan:

Hành vi khách quan của tội cho vay lãi nặng thể hiện ở các hành vi như sau:

– Cho người khác vay với mức lãi suất cao quá gấp 5 lần mức lãi suất tối đa được quy định trong Bộ luật dân sự. Như đã phân tích ở phần trên, theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 thì mức lãi suất tối đa được phép là 20% của một năm, do vậy nếu như ai cho vay lãi suất cao gấp 5 lần, tức là 100%/năm thì hành vi đó vi phạm, có dấu hiệu của Tội cho vay lãi nặng theo quy định tại Bộ luật hình sự.

– Thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng trở lên: Thế nào là thu lợi bất chính? Căn cứ tại Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 01/2021 của Hội đồng thẩm phán có quy định “thu lợi bất chính là số tiền lãi vượt quá mức lãi suất vay cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự và các khoản thu trái pháp luật khác của người vay. Trường hợp thu lợi bất chính là tài sản khác (không phải là tiền) thì phải được quy đổi thành tiền tại thời điểm chuyển giao tài sản vay.”

Căn cứ xác định số tiền thu lợi bất chính để xử lý trách nhiệm hình sự được quy định rất rõ trong Nghị quyết số 01/2021 của Hội đồng thẩm phán:

+ Trường hợp cho vay lãi nặng đã hết thời hạn vay theo thỏa thuận thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay phải trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự trong cả kỳ hạn vay.

+ Trường hợp cho vay lãi nặng chưa hết thời hạn vay theo thỏa thuận mà bị phát hiện thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay phải trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự tính đến thời điểm cơ quan có thẩm quyền phát hiện và ngăn chặn.

Trường hợp bên vay đã trả tiền lãi trước hạn và các khoản thu trái pháp luật khác thì số tiền thu lợi bất chính để xác định trách nhiệm hình sự bao gồm tiền lãi và các khoản thu trái pháp luật khác mà người vay thực tế đã trả cho người cho vay sau khi trừ đi số tiền lãi tương ứng với mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự.

Như vậy, người cho vay nặng lãi có hành vi cho vay mức lãi suất cao quá gấp 5 lần và phải có thu lợi bất chính thì mới đủ cấu thành hành vi cho vay lãi nặng theo quy định của pháp luật. Nếu trong giao dịch dân sự, người cho vay với lãi suất cao gấp 5 lần trở lên mức lãi suất cao nhất quy định tại Bộ luật dân sự nhưng thu lợi chưa đến 30 triệu đồng thì cũng chưa đủ có hành vi cho vay lãi nặng và không bị coi là phạm tội.

* Về hậu quả:

Hậu quả của hành vi cho vay lãi nặng là những thiệt hại vật chất và phi vật chất cho cá nhân cũng như xã hội, cụ thể như tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cá nhân; thiệt hại về tài sản cho con người, xã hội cũng như an ninh trật tự trong lĩnh vực tín dụng của Nhà nước…

Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cho vay nặng lãi là gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho người vay, làm cho người vay chịu lãi nặng quá cao dẫn đến những hậu quả trên. Và đối với tội cho vay lãi nặng, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.

Như vậy, theo quy định của Bộ luật hình sự, khi đủ các yếu tố cấu thành tội phạm trên, người cho vay nặng lãi sẽ phải chịu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Bộ luật Hình sự.

Một số trường hợp truy cứu truy cứu trách nhiệm hình sự với hành vi cho vay nặng lãi được quy định trong Nghị quyết 01/2021/NQ-HĐTP như sau:

– Trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, mà số tiền thu lợi bất chính của mỗi lần phạm tội từ 30.000.000 đồng trở lên, nếu mỗi lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

– Trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng mà các lần thu lợi bất chính đều dưới 30.000.000 đồng nhưng tổng số tiền thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên và các hành vi này chưa lần nào bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần cho vay lãi nặng, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

– Trường hợp người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, trong đó có một lần cho vay lãi nặng, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên và hành vi cho vay lãi nặng này chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; còn các hành vi cho vay lãi nặng khác thu lợi bất chính dưới 30.000.000 đồng, các hành vi này chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và chưa hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự với khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần cho vay lãi nặng, không áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

– Trường hợp người cho vay lãi nặng thực hiện nhiều hành vi khác nhau liên quan đến việc đòi nợ (như: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, uy hiếp tinh thần, gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe hoặc có hành vi khác để lấy tài sản,…) thì tùy từng trường hợp họ còn bị xử lý hình sự về tội phạm tương ứng, nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm.

– Trường hợp người cho vay lãi nặng nhằm thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng trở lên, nhưng vì nguyên nhân ngoài ý muốn mà người cho vay chưa thu lợi bất chính hoặc đã thu lợi bất chính dưới 30.000.000 đồng, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt tương ứng với tổng số tiền thu lợi bất chính mà họ nhằm đạt được. Việc xác định số tiền thu lợi bất chính được thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 6 Nghị quyết này. Khi quyết định hình phạt, Tòa án áp dụng Điều 15 và khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự về phạm tội chưa đạt.