Tìm hiểu Chiều dài chiều rộng là gì (khác nhau-Chiều ngang là chiều nào-chiều dài, chiều rộng tiếng anh-Tính chu vi chiều dài, chiều rộng-Chiều rộng là ngang hay dọc-Ký hiệu dài rộng cao-tính chu vi Trái Đất) – taytou

Ở nội dung này, chúng ta tìm hiểu về Chiều rộng, chiều dài, đó là gì, khác nhau như thế nào, đơn vị, cách tính chu vi chiều rộng chiều dài ra sao, ký hiệu như thế nào.

tim hieu Chieu dai chieu rong la gi khac nhau Chieu ngang la chieu nao chieu dai chieu rong tieng anh taytou com

Khác nhau của chiều dài và chiều rộng

Chiều dài so với chiều rộng

Hiện tại có một số nhầm lẫn đang diễn ra khi phân biệt chiều dài với chiều rộng. Vấn đề là các mô tả của hai người có phần khác nhau tùy thuộc vào nơi bạn học nó. Nếu nó nằm trong giới hạn của lớp học, hầu hết học sinh được dạy trong toán học rằng hình bình hành hình chữ nhật (có các cạnh song song) sẽ có cạnh dài nhất là chiều dài trong khi cạnh ngắn hơn là chiều rộng. Điều này là bất kể bên dài hơn là bên dọc hay bên ngang. Tuy nhiên, nhiều người đã quan sát thấy rằng chiều dài thường là chiều dọc và chiều rộng là chiều dọc với mặt phẳng ngang.

>> Lối sống tối giản là gì (cách sống tối giản của người Nhật Bản-kiến thức kinh nghiệm sống tối giản)

Sự nhầm lẫn tiếp tục bởi vì trong một số khía cạnh khác, chiều dài không phải luôn luôn là phép đo dài nhất của một đối tượng. Ví dụ, một số dây thực sự dày hơn (chiều rộng) trái ngược với việc cắt chiều dài ngắn hơn của chúng. Các bóng bán dẫn FET cũng có độ rộng kênh có số đo lớn hơn chiều dài kênh của chúng. Tuy nhiên, theo cách hiểu của giáo dân, chiều dài chỉ đơn giản là mô tả độ dài của một thứ gì đó trong khi chiều rộng đang nói với ai đó về một vật thể rộng bao nhiêu.

Chiều rộng còn được gọi là chiều rộng. Đó là khoảng cách từ một bên đến phía bên kia, đo qua một hình dạng hoặc vật thể cụ thể có chiều dài đang tạo thành các góc vuông với các cạnh như trong trường hợp của một hình chữ nhật.

Chiều dài và chiều rộng là hai đơn vị một chiều cơ bản so với phép đo diện tích hình chữ nhật là sản phẩm của hai đơn vị, chiều dài và chiều rộng. Có nhiều đơn vị chiều dài được sử dụng ngày nay. Cơ bản nhất trong số đó là máy đo trong các đơn vị đo lường SI. Các đơn vị khác cho chiều dài là: foot, yard, dặm và inch cho các đơn vị đo lường của Imperial hoặc tiếng Anh. Ngoài ra còn có một số đơn vị độ dài không SI như: micron, mil Na Uy, angstrom và Fermi.

Độ dài cũng có thể đề cập đến một khoảng thời gian như hỏi một hoạt động nhất định sẽ kéo dài bao lâu. Một số người cũng sử dụng độ dài trong cùng bối cảnh với khoảng cách như khi người ta nói, Giữ nó ở độ dài của cánh tay!

Tóm lược:

  1. Chiều dài là mô tả độ dài của vật gì đó trong khi chiều rộng mô tả chiều rộng của vật thể.
  2. Trong hình học, chiều dài liên quan đến cạnh dài nhất của hình chữ nhật trong khi chiều rộng là cạnh ngắn hơn.
  3. Chiều dài cũng có thể đề cập đến một khoảng thời gian hoặc thước đo khoảng cách.
  4. Đơn vị phổ biến nhất để đo chiều dài là máy đo.

>> Ngành công nghiệp là gì (vai trò chủ đạo của ngành công nghiệp được thể hiện ở chỗ-Bánh kẹo, Thép là sản phẩm của ngành công nghiệp nào-Vai trò quan trọng của công nghiệp ở nông thôn và miền núi được xác định là-Vai trò nào dưới đây không phải của ngành công nghiệp dệt – may-Vai trò nào dưới đây không phải là của ngành công nghiệp-Ngành sản xuất công nghiệp có vai trò chủ đạo-Điểm giống nhau cơ bản của hai giai đoạn sản xuất công nghiệp là-Ở nước ta, ngành công nghiệp nào cần được ưu tiên đi trước một bước-Vai trò quan trọng nhất của công nghiệp năng lượng là-Nhân định nào dưới đây đúng khi nội về vai trò của ngành công nghiệp-Tính chất tập trung cao độ trong công nghiệp được thể hiện rõ ở việc-Ý nào sau đây không phải là vai trò của ngành công nghiệp điện lực-Sản phẩm của ngành công nghiệp-Ngành chủ đạo của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng là-Vai trò nào sau đây của sản xuất công nghiệp đối với ngành kinh tế)

Đơn vị đo của chiều dài, chiều rộng: Điều thú vị về những tên đơn vị đo chiều dài nhiều người thắc mắc

Do quá quen thuộc với các đơn vị đo chiều dài hiện đại như km, m, dm, cm, mm nên nhiều người thắc mắc về các đơn vị đo chiều dài vẫn được dùng nhưng ít phổ biến hơn: inch, tấc, li, phân, thước, trượng, dặm, cây số, hải lý…Li, phân, tấc, thước bằng bao nhiêu m, cm?

Hiện nay sự quy đổi các đơn vị li, phân, tấc, thước, sang mét, centimet như sau:

1 li = 1 mm = 0,1 cm (Một li bằng một minimet bằng không phẩy một centimet)

1 phân = 10 mm = 1 cm (Một phân bằng một centimet)

1 tấc = 1 dm = 10 cm (Một tấc bằng một decimet bằng 10 centimet)

1 thước = 1m = 100cm (Một thước bằng một mét bằng một trăm centimet)

Tuy nhiên, điều các bạn có thể ít biết là ngày xưa các đơn vị đo lường cổ của nước ta quy đổi sang mét, centimet khác với hiện nay.

Thước là đơn vị đo lường từ cổ xưa hay sử dụng. 1 thước ta cổ = 0.47m = 47cm. 1 trượng = 4,7m.

Sau này thực dân Pháp xâm lược và quy định 1 thước làm tròn = 0.4 m = 40 cm.

Các đơn vị khác cũng được làm tròn tương tự, cụ thể:

1 li = 0,4 mm

1 phân = 4 mm

1 tấc = 4 cm

1 thước = 40 cm

đơn vị đo chiều dàiẢnh minh họaTÀI TRỢ1 inch bằng bao nhiêu cm?

Inch là một đơn vị đo chiều dài dùng phổ biến tại Mỹ, Anh, Úc, Canada… Hiện nay người Việt quen với khái niệm “inch” qua việc sử dụng các thiết bị màn hình điện tử.

Theo quy đổi, 1 inch = 2,54 cm.

1 dặm, 1 cây số bằng bao nhiêu mét?

Dặm, cây số cũng là những tên gọi đơn vị đo chiều dài mà chúng ta vẫn nghe thấy hiện nay. Trong đó, khái niệm “dặm” hiện phổ biến là dặm Anh (mile) và dặm Trung Quốc.

1 dặm Anh (mile) = 1,609344 km = 1.609,344 m

1 dặm Trung Quốc = 0.5 km = 500m

Từ “cây số” trong tiếng Việt có nguồn gốc từ những cây cột trụ trên các quốc lộ, cách nhau 1 km. Do đó rất dễ hiểu khi quy đổi 1 cây số = 1km.

Tìm hiểu về đơn vị Hải lý

Hải lý còn được gọi là dặm biển (ký hiệu: M, NM hoặc nmi) là một đơn vị chiều dài hàng hải.

Theo quy ước quốc tế, 1 hải lý = 1.852 m

Điều thú vị về những tên đơn vị đo chiều dài nhiều người thắc mắc1 hải lý bằng bao nhiêu km?Người đi biển sử dụng hải đồ để tác nghiệp vị trí và vết đi của tàu. Trên hải đồ thể hiện tọa độ địa lý rất chi tiết, tới từng độ và phút. Hải đồ tuy cố gắng thể hiện địa hình với độ chính xác cao nhất nhưng vẫn có sự biến dạng nhất định, trong đó có vĩ tuyến bị biến dạng nhiều nhất, riêng kinh tuyến hầu như không bị biến dạng, vì vậy mỗi phút kinh tuyến có độ dài khá ổn định cả trên hải đồ cũng như trên thực địa.

Hải lý là đơn vị đo độ dài trên biển, có chiều dài bằng 1 phút kinh tuyến, khoảng 1.852m (mỗi kinh tuyến cách nhau 1 độ = 60 phút). Tương tự như vậy, hải lý trên giờ là đơn vị đo tốc độ tương ứng trên biển. Lề hai bên hải đồ có thang vĩ độ chi tiết tới từng phút, rất thuận tiện cho người dùng căn cứ vào đó mà xác định chiều dài quãng đường hay khoảng cách bằng hải lý.

>> mâu thuẫn cơ bản trong xã hội pháp trước cách mạng là (Tình hình Nước pháp trước cách mạng thế nào-Cách mạng Pháp là gì-Ba đẳng cấp trong xã hội Pháp trước cách mạng là-Điểm giống nhau cơ bản của tình hình nước Anh và nước Pháp trước cách mạng tư sản là-Chế độ chính trị ở nước Pháp trước khi bùng nổ cách mạng là-Xã hội nước Pháp trước cách mạng gồm những đẳng cấp nào-Nguyên nhân sâu xa dẫn tới bùng nổ cách mạng tư sản Pháp là-Mâu thuẫn bao trùm trong xã hội Pháp trước cách mạng là-Xã hội Pháp trước cách mạng năm 1789 gồm có những đẳng cấp nào)

Tính chu vi chiều dài, chiều rộng hình chữ nhật, hình vuông

Định nghĩa : Muốn tính được chu vi Hình chữ nhật bạn lấy chiều dài cộng với chiều rộng ( cùng đơn vị đo) rồi nhân 2.

Công thức: Công thưc tính như sau : P = 2 x ( a + b )Trong đó:

  • P trong đó gọi : chu vi hình chữ nhật
  • a trong công thức gọi: chiều dài hình chữ nhật
  • b trong công thức gọi: chiều rộng hình chữ nhật

Ai tìm ra chu vi trái đất, Công thức tính chu vi Trái đất-một vòng trái đất, bao nhiều km-Công thực tính chu vi Trái đất-Bài toán tính chu vi Trái đất-Mặt trời chu vi-Bản đồ trái đất-Đường kính Trái đất-Hình trái đất 3D

Vào khoảng năm 500 trước Công nguyên, hầu hết người cổ đại tin rằng Trái đất tròn chứ không phẳng. Nhưng họ không biết hành tinh này lớn đến mức nào cho đến năm 240 trước Công nguyên, khi Eratosthenes nghĩ ra một phương pháp thông minh để ước tính chu vi của nó.

Pythagoras, nhà triết học và toán học người Hy Lạp, là người đầu tiên đề xuất Trái đất hình cầu vào năm 500 trước Công nguyên, chủ yếu dựa trên góc nhìn thẩm mỹ của ông thay vì chỉ ra bất kỳ bằng chứng nào. Giống nhiều người Hy Lạp khác, ông tin rằng hình cầu là hình dạng hoàn hảo nhất.

>> Quần thể là gì (Thay đổi làm tăng hay giảm kích thước quần thể được gọi là gì-quần thể sinh vật là gì-vốn gen của quần thể là gì-sự cạnh tranh giữa các cá thể trong quần thể sinh vật có thể dẫn tới-quan hệ hỗ trợ trong quần thể là gì-mật độ cá thể của quần thể có ảnh hưởng tới gì-mật độ của quần thể là gì-tuổi quần thể là gì-cấu trúc di truyền của quần thể là gì-ví dụ về quần thể sinh vật)

Năm 350 trước Công nguyên, Aristotle (384 – 322 TCN) lần đầu tiên đưa ra một số lập luận chứng minh Trái đất hình cầu trong cuốn sách “Trên thiên đàng” (On the Heavens) bao gồm: (1) Khi con thuyền đi về phía đường chân trời, phần thân tàu sẽ biến mất đầu tiên sau đó đến cột buồm, (2) Trái đất tạo ra một bóng đen tròn trên Mặt trăng trong lúc xảy ra hiện tượng nguyệt thực, (3) Các chòm sao khác nhau sẽ xuất hiện ở những vĩ độ khác nhau [Ví dụ chòm sao Big Dipper luôn có thể nhìn thấy ở vĩ độ 41 độ Bắc hoặc cao hơn. Dưới 25 độ Nam, bạn hoàn toàn không thể nhìn thấy nó].

Trong khoảng thời gian này, nhiều nhà triết học Hy Lạp bắt đầu tin rằng thế giới họ đang sống có thể giải thích bằng những quá trình tự nhiên thay vì viện dẫn đến sức mạnh của các vị thần, và họ cũng bắt đầu thực hiện các phép đo vật lý trên quy mô lớn. Người đầu tiên xác định kích thước Trái đất là Eratosthenes. Ông đã thực hiện một phép đo với độ chính xác đáng ngạc nhiên bằng cách kết hợp kiến thức hình học với các quan sát vật lý.

Eratosthenes sinh ra tại thành phố Cyrene của Hy Lạp vào năm 276 trước Công nguyên [vùng đất này hiện nay nằm ở Shahhat, Libya]. Ông được vua Ptolemy III của Ai Cập bổ nhiệm làm thủ thư của Thư viện Alexandria vào năm 240 trước Công nguyên. Các bạn bè và đồng nghiệp đặt cho ông biệt danh là Beta [chữ cái thứ hai trong bảng chữ cái của người Hy Lạp].

Eratosthenes là một trong những học giả nổi tiếng nhất vào thời của ông với nhiều khám phá ấn tượng về thiên văn học, toán học, địa lý, triết học và thơ ca. Hiện nay, nhiều người biết đến ông với tư cách là tác giả của phương pháp sàng Eratosthenes dùng để xác định các số nguyên tố.

Thành tựu nổi bật nhất của Eratosthenes là phép đo chu vi Trái đất. Ông ghi chép chi tiết phép đo này trong một bản thảo hiện nay đã thất lạc, nhưng phương pháp mà ông sử dụng được mô tả lại bởi các sử gia và nhà văn Hy Lạp khác.

Eratosthenes tỏ ra khá hứng thú với lĩnh vực địa lý và ông muốn vẽ bản đồ thế giới. Để thực hiện điều này, ông cần biết chính xác kích thước Trái đất. Rõ ràng một người không thể đi bộ vòng quanh Trái đất để ước tính chu vi của nó.

Eratosthenes từng được nghe khách du lịch kể về một cái giếng ở thành phố Syene (nay là thành phố Aswan, Ai Cập) có những đặc điểm thú vị: vào buổi trưa ngày hạ chí [ngày 21 tháng 6 hằng năm], ngay lúc Mặt trời trên đỉnh đầu, ánh sáng chiếu thẳng xuống đáy giếng mà không để lại bất kì cái bóng nào.

Để kiểm tra xem điều tương tự có xảy ra tại thành phố Alexandria [nằm ở phía Bắc thành phố Syene] hay không, Eratosthenes cắm một cây gậy thẳng đứng xuống mặt đất vào lúc giữa trưa trong ngày hạ chí. Ông phát hiện cây gậy tạo ra bóng dưới mặt đất do ánh sáng Mặt trời không chiếu vuông góc xuống Alexandria. Bằng cách đo độ dài của bóng cây gậy và độ dài thực tế của nó, ông tính được góc tạo bởi cây gậy và tia sáng Mặt trời khoảng 7,2 độ, hoặc bằng 1/50 của một đường tròn hoàn chỉnh. Theo kiến thức hình học, đây cũng chính là góc tạo bởi tâm Trái đất và vị trí của hai thành phố Alexandria và Syene.

Eratosthenes nhận ra rằng nếu biết khoảng cách từ Alexandria đến Syene, ông có thể dễ dàng tính được chu vi của Trái đất thông qua một vài phép toán đơn giản. Nhưng vào thời đó, việc xác định quãng đường giữa hai thành phố cách xa nhau với độ chính xác cao là vô cùng khó khăn. Người ta thường sử dụng thời gian một đoàn lữ hành cưỡi lạc đà đi từ thành phố này sang thành phố khác để ước tính khoảng cách của chúng. Tuy nhiên, lạc đà có xu hướng đi lang thang và đi bộ với vận tốc khác nhau. Vì vậy, Eratosthenes đã thuê các bematist [ những người được đào tạo để đi bộ với các bước dài bằng nhau. Họ tính khoảng cách bằng cách đếm số bước chân]. Kết quả cho thấy, Syene nằm cách Alexandria khoảng 5.000 stadia.

Hai thành phố Alexandria và Syene nằm cách nhau 7,2 độ trên bề mặt 360 độ của Trái đất. Khoảng cách giữa hai thành phố là 5.000 stadia [tương ứng với 7,2 độ]. Do đó chu vi Trái đất bằng (5.000 × 360) : 7,2 = 250.000 stadia.

Các học giả hiện đại không thống nhất về chiều dài của đơn vị đo “stadia” mà Eratosthenes đã sử dụng. Giá trị 1 stadia nằm trong khoảng từ 152 m đến 183 m. Do đó, chu vi của Trái đất theo cách tính của Eratosthenes nằm trong khoảng từ 38.000 km đến 45.700 km. Ngày nay, chúng ta biết rằng chu vi của Trái đất tính theo độ dài đường xích đạo bằng 40.075 km, và chu vi sẽ nhỏ hơn một chút nếu đo theo đường kinh tuyến từ cực Bắc xuống cực Nam.

Để thực hiện những tính toán nói trên, Eratosthenes giả định rằng Mặt trời ở rất xa chúng ta nên các tia sáng của nó chiếu đến Trái đất về cơ bản là song song với nhau và Syene nằm chính xác trên chí tuyến Bắc của Trái đất. Mặc dù không hoàn toàn đúng, nhưng các giả định này đủ chính xác để đo chu vi Trái đất với sai số không quá lớn. Đây là phương pháp khá đơn giản, thậm chí nó vẫn còn được các học sinh trên khắp thế giới sử dụng đến ngày nay.

Chúng ta bắt đầu phóng các vệ tinh vào không gian trong thế kỷ XX để đo chính xác chu vi của Trái đất. Nhưng hơn 2000 năm trước, Eratosthenes – một nhà toán học Hy Lạp cổ đại – đã tính ra kết quả gần đúng chỉ bằng một cây gậy và trí thông minh của mình.

Nhiều học giả Hy Lạp khác đã lặp lại thí nghiệm và họ cũng tính được chu vi Trái đất nhờ áp dụng phương pháp của Eratosthenes. Vài thập kỷ sau, Posidonius sử dụng ngôi sao Canopus làm nguồn sáng và các thành phố Rhodes và Alexandria làm cột mốc. Nhưng do ông xác định khoảng cách giữa hai thành phố này không chính xác, nên ông tính ra chu vi Trái đất bằng 28.900 km, quá nhỏ so với thực tế.

Đến thế kỷ 2 sau Công nguyên, Ptolemy sử dụng kết quả tính toán thiếu chính xác của Posidonius để đưa vào trong một chuyên luận về địa lý. Các nhà thám hiểm sau này, bao gồm Christopher Columbus, đọc tác phẩm của Ptolemy và tin rằng kích thước Trái đất đủ nhỏ để đi thuyền xung quanh. Nếu Columbus biết chu vi Trái đất lớn hơn như tính toán của Eratosthenes, có lẽ ông đã không bắt đầu chuyến đi để tìm ra châu Mỹ.

Về phép đo chu vi Trái đất

Cứ mỗi dịp thu phân hoặc xuân phân, học sinh nhiều nơi lại hưởng ứng phong trào đo chu vi Trái đất. Để tạo ra được sân chơi trải nghiệm khoa học như vậy, công sức của các thầy cô và học trò bỏ ra thật đáng quý. Nếu phép đo chỉ bị hạn chế về dụng cụ, hay điều kiện thực nghiệm không hoàn hảo, thì những hoạt động theo tính thần ấy vẫn rất đáng hoan nghênh. Tuy vậy, đã tồn tại những sai lầm mang tính nguyên tắc không thể không nói tới. Bản chất câu chuyện này như thế nào?

Hơn 200 học sinh TP.HCM háo hức tự tay đo chu vi Trái đất – Ảnh 1.Các đội thực nghiệm đo chu vi trái đất – Ảnh: Như HùngVề bản chất, phép đo chu vi Trái đất là một phép đo đòi hỏi nhiều thao tác vĩ mô, không dễ làm như chúng ta tưởng, mặc dù về nguyên lý là đơn giản.

Nguyên lý đo lường

Tôi muốn nhắc lại nguyên lý chung của mọi phép đo: đo đạc là sự so sánh giữa hai đại lượng cùng loại. Đặc biệt, thước đo cần có “kích cỡ” cùng bậc với đối tượng được đo. Muốn đo vật nhỏ cần phải có cây thước nhỏ, muốn đo vật lớn phải có cây thước lớn. Ví dụ muốn đo bước sóng ánh sáng, cỡ micromet, ta có thể dùng thước đo là cách tử, là vật tạo ra từ nhiều vạch song song có khoảng cách nhỏ cỡ micromet. Muốn đo kích thước một vật lớn như Trái đất, ta cần một cây thước phải tầm cỡ lục địa.

Phép đo của EratosthenesThực ra phép đo chu vi Trái đất đã từng tiến hành 2 nghìn năm trước tại vùng Hy Lạp cổ đại, trên vùng đất thuộc lãnh thổ Ai Cập ngày nay. Eratosthenes đã đo góc lệch giữa hai thành phố Alexandria và Syene như miêu tả hình dưới.

Nguyên lý đo chu vi Trái đất của EratosthenesTại sao hai thành phố này được chọn chứ không phải ở đâu khác? Có 3 lý do như sau:

Thứ nhất: Syene – ngày nay là Aswan thuộc Ai Cập – nằm gần Bắc chí tuyến. Ta biết rằng hầu hết các vùng đất thuộc văn minh Hy Lạp – La Mã đều nằm phía bắc của chí tuyến này, mặt trời không bao giờ chiếu thẳng góc vào giữa trưa. Chỉ ở vùng nhiệt đới mới có bóng nắng thẳng đứng như vậy. Syene nằm ở rìa nhiệt đới, nắng sẽ chiếu thẳng đứng vào giữa trưa ngày hạ chí. Theo lịch ngày nay hạ chí nhằm vào 22 tháng 6 hằng năm.

Thực ra Eratosthenes chẳng đo gì ở Syene cả! Ông chỉ du lịch đến đó để xác nhận rằng: Syene có nằm trên chí tuyến hay không, nắng Mặt trời có chiếu thẳng xuống đáy giếng được hay không. Nếu không phép đo sẽ phải thay đổi sang thể thức khác.

Thứ hai: Alexandria và Syene nằm trên hai kinh tuyến khá gần nhau, chỉ lệch khoảng 4 độ. Do vậy một cách gần đúng có thể xem như chung đường kinh tuyến. Từ đó phép đo góc mới trở nên ý nghĩa, vì góc nghiêng của bóng nắng giữa trưa phụ thuộc vào vĩ độ, không phụ thuộc vào kinh độ.

Thứ ba: Alexandria – Syene nằm trên khoảng cách khá xa nhau, và cũng là điểm quan trọng nhất.

Tổng kết lại, góc lệch giữa hai thành phố có thể xác định bằng bóng nắng giữa trưa tại Alexandria vào ngày hạ chí. Ông thu được kết quả rằng: Syene – Alexandria lệch nhau 7.2 độ kinh tuyến. Trong khi đó toàn bộ chu vi Trái đất chiếm tròn 360 độ. Từ đây ta luận ra tỉ lệ:

Chu vi Trái đất = (Khoảng cách Syene – Alexandria) x 360∘7.2∘= 50 x (Khoảng cách Syene – Alexandria)

Nói một cách đơn giản: chu vi Trái đất phải lớn hơn khoảng cách Syene – Alexandria tầm 50 lần.

Triết lý phép đo nằm ở đây: Eratosthenes đã dùng khoảng cách giữa Syene và Alexandria làm thước đo. Kích thước Trái đất quá lớn, phải lấy hai địa điểm nằm rất xa nhau như Syene – Alexandria mới so sánh được! 50 x (Khoảng cách Syene – Alexandria) là kết quả đo. Eratosthenes không hề kết luận gì thêm.

Không có chuyện “Eratosthenes đã dứt khoát khẳng định Trái đất hình cầu và ông đã đo được chu vi của Trái đất khoảng 40.349km, sai lệch không nhiều so với tính toán của khoa học hiện đại là 40.074km” như nhiều tài liệu đăng tải. Thời đó thậm chí còn chưa có đơn vị kilomet của cách mạng Pháp 1789.

Phép đo của Eratosthenes hết sức thông minh và ý nghĩa. Nhưng ông là người có điều kiện đi lại, có thể qua về giữa hai địa điểm cách nhau cả nghìn kilomet. Liệu chúng ta có thể đo được chu vi Trái đất, chỉ bằng cách ngồi yên một chỗ?

Phong trào đo chu vi Trái đấtCách làm của phòng trào là đi đo vĩ độ của địa phương đang đứng, bằng cách đo độ lệch của bóng nắng giữa trưa ngày thu phân hoặc xuân phân. Nguyên lý đo vĩ độ miêu tả như hình dưới. Vào xuân phân, một tia nắng sẽ đâm ngang xích đạo “thẳng vào tâm” Trái đất, thì tia song song với nó chiếu xuống Tp. Hồ Chí Minh sẽ nghiêng một góc 10.85 độ. Đo được góc nghiêng này là khi ta suy ra, Tp. Hồ Chí Minh lệch so với xích đạo 10.85 độ, hay có vĩ độ 10.85.

Nguyên lý đo vĩ độNhớ lại phép đo chu vi Trái đất của Eratosthenes, ta có hệ thức:

Chu vi Trái đất = (Khoảng cách Tp HCM – Xích đạo) x 360∘10.85∘= 33 x (Khoảng cách Tp HCM – Xích đạo)

Vấn đề là, khoảng cách Tp. HCM – Xích đạo bằng bao nhiêu? Mâu thuẫn diễn ra ở đây: nếu phải đi tra khoảng cách từ địa phương đến xích đạo, thường tiến hành bằng google map kết hợp GPS…, thì có lẽ cũng nên google luôn chu vi Trái đất, không cần đo nữa 🙂

Hơn nữa, nếu đơn giản là muốn tự tay đo vĩ độ, thì tối ra ngoài đo góc lệch sao Bắc cực so với đường chân trời là xong, đêm nào quang mây cũng đo được, không cần đợi đến xuân phân.

Cũng có nhóm tiến hành phỏng theo phương pháp của Eratosthenes, một nửa đo ở Hà Nội, nửa kia đo ở Tp. Hồ Chí Minh, rồi lấy khoảng cách Hà Nội – Hồ Chí Minh nhân lên theo tỉ lệ để ra chu vi. Và khoảng cách Hà Nội – Hồ Chí Minh cũng lấy từ google.

Chu vi Trái đất = (Khoảng cách HN – HCM) x 360∘/(Vĩ độ HN – Vĩ độ HCM)

Phần mang tính bản chất và khó nhất của thí nghiệm, chính là đo được khoảng cách giữa hai địa phương đủ xa nhau, hoặc khoảng cách từ một địa phương đến xích đạo, với điều kiện địa phương không được nằm quá gần xích đạo. Việc gọi tên hoạt động là “Thực hành đo chu vi Trái đất” thể hiện rằng chưa hiểu nguyên lý phép đo. Thực hành ấy có thể gọi thành phép đo vĩ độ… có lẽ hợp lý hơn. Và cách hay nhất để xác định vĩ độ: quan sát thiên văn. À quên, vĩ độ cũng có trong GPS

Phép đo vĩ độ bằng thổ khuê, định ngày tháng bằng nhật biểu, xem thời gian bằng bóng nắng là bước tiến vĩ đại của con người từ thời trung cổ, tiến hành từ Trung Hoa, Lưỡng Hà cho đến châu Âu sau này. Nhưng điểm ý nghĩa nhất chính là việc con người đã dần nhận ra hình dạng mặt cầu của Trái đất từ xa xưa. Còn chính xác số đo chu vi của mặt cầu đó bằng bao nhiêu, chỉ phụ thuộc vào thước đo lựa chọn.

Nếu lấy thước đo Alexandria-Syene, chu vi Trái đất sẽ bằng 50 đơn vị. Nếu lấy khoảng cách Hà Nội – Tp. Hồ Chí Minh, kết quả sẽ bằng 33 đơn vị.

Vào thời điểm cách mạng Pháp 1789, khi kĩ thuật đo lường đã khá phát triển, người ta lấy luôn chu vi Trái đất làm tiêu chuẩn để định nghĩa mét: 1 mét là khoảng cách bằng 1/40’000’000 của chu vi Trái đất. Tự nhiên rằng, chu vi Trái đất đúng bằng 40 triệu mét.

Chiều dài là gì

Trong vật lý toán học, chiều dài là định nghĩa cơ bản chỉ trình tự của các điểm dọc theo một đường nằm trong không gian khoảng không và đo lượng mà điểm này nằm trước hoặc sau điểm kia. Trong ngôn ngữ thông dụng, chiều dài là một trường hợp của khoảng cách. Chiều dài của một vật thể là kích thước mở rộng của nó, tức là cạnh dài nhất của nó.

Chiều rộng là gì

Chiều rộng là khoảng cách từ một “thành” của cạnh ngắn đến thành đối diện. Kéo thước từ cạnh này đến cạnh kia để xác đinh số đo và làm tròn số đến đơn vị inch gần nhất.

Ký hiệu dài rộng cao

Trong tiếng Việt là: ký hiệu cho chiều dài (d) chiều rộng (r) chiều cao (c)

Trong tiếng anh, những ký hiệu này khác như sau: Length (n) = long (adj) ==> Dài · Width (n) = wide (adj) ==> Rộng · Depth (n) = deep (adj) ==> Sâu · Hight (n) = high (adj ==> Cao