Chế độ chính trị của Mỹ là

Liên minh của Hoa Kỳ được thành lập theo mô hình chính trị ba quyền riêng biệt, trong đó quyền lập pháp thuộc về Quốc hội, quyền hành pháp thuộc về Tổng thống và quyền tư pháp thuộc về Tòa án tối cao. Mỗi tiểu bang trong Hoa Kỳ có hiến pháp và hệ thống luật riêng, nhưng không được vi phạm Hiến pháp của Liên minh.

Quốc hội Liên bang:

Công việc của tổ chức hành pháp và tư pháp, Quốc hội vẫn có sự giám sát. Bao gồm Thượng viện và Hạ viện, Quốc hội Liên bang Hoa Kỳ.

Trụ sở Quốc hội của Hoa Kỳ.

Các cơ quan quản lý không có đại diện tại Hội đồng thượng nghị. Hội đồng thượng nghị bao gồm 100 thành viên, trong đó mỗi bang có hai đại diện. Thời gian làm việc của thành viên thượng nghị là 6 năm. Hội đồng thượng nghị tổ chức cuộc bầu cử lại cho 1/3 số thành viên hai năm một lần. Phó Tổng thống đóng vai trò Chủ tịch Hội đồng thượng nghị theo quy định pháp lý. Tuy nhiên, thực tế, người lãnh đạo của đa số trong Hội đồng thượng nghị là người điều hành công việc hàng ngày. Phó Tổng thống chỉ phiếu khi cần thiết để tránh bế tắc trong trường hợp Hội đồng thượng nghị rơi vào tình huống 50/50 về một vấn đề nào đó.

Chủ tịch Hạ viện là người đứng đầu cơ quan này. Ông ta thường xếp thứ hai sau Phó Tổng thống trong việc kế nhiệm Tổng thống. Hạ viện bao gồm 435 người đại diện, và họ được bầu cử vào cương vị này trong thời gian 2 năm. Số lượng người đại diện cho mỗi bang trong Hạ viện phụ thuộc vào dân số của từng bang, và quyền của mỗi bang đều được đảm bảo ít nhất một người đại diện. Quá trình phân bổ người đại diện cho từng bang được thực hiện mỗi 10 năm dựa trên kết quả điều tra dân số. Ngoài ra, các khu hành chính như Samoa, Thủ đô Washington DC, Guam và Quần đảo Virgin cũng có đại diện mặc dù không có quyền bỏ phiếu. Khu vực Puerto Rico được đại diện bởi một Cao ủy thường trú.

Các tổ chức quân sự được kiểm soát, đánh thuế, vay tiền, phát hành tiền, điều tiết thương mại và ban hành luật cần thiết cho hoạt động của chính quyền được chia quyền giữa hai viện. Cả hai viện đều có quyền quyết định chiến tranh. Trong đó, Hạ viện có đặc quyền tư vấn và thông qua các hiệp định mà Chính phủ ký với quốc tế và các chức vụ do Tổng thống bổ nhiệm. Ví dụ, Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được chính phủ hai nước ký vào tháng 7 năm 2000 và Hạ viện Hoa Kỳ thông qua vào tháng 11 năm 2001 và có hiệu lực thi hành từ ngày 10/12/2001.

Dự luật liên quan tới tài chính (thuế và phân bổ ngân sách) đều do Hạ viện đề xuất; Thượng viện có thể thay đổi dự luật của Hạ viện bằng việc bỏ phiếu và sau đó hai viện sẽ họp chung để giải quyết sự khác biệt. Hạ viện có thể bỏ biểu buộc tội Tổng thống và các quan chức liên bang, và Thượng viện có quyền quyết định xem có sa thải người bị buộc tội đó hay không.

Có những ủy ban riêng của mình cả Thượng viện và Hạ viện. Tuy nhiên, giữa Thượng viện và Hạ viện có một số ủy ban hợp tác để xử lý một số nhiệm vụ chung.

Các tổ chức của chính phủ liên bang và bang chia sẻ nguồn tài chính cho các dự án tại địa phương. Điều này hỗ trợ các đại biểu và mang lại nhiều lợi ích cho cử tri của họ. Bầu cử khu vực quyết định việc bầu cử các đại biểu (thượng và hạ nghị sĩ liên bang và bang).

Các cơ quan lập pháp và hành pháp thông qua các quy định pháp lý và quyết định có lợi cho cử tri của mình là cách mà các đại biểu thường thực hiện. Ví dụ, nhiều thành viên của quốc hội các bang ở Hoa Kỳ đã ủng hộ và tích cực thúc đẩy Quốc hội Liên bang thông qua dự luật cấm bán cá da trơn của Việt Nam có tên gọi là cá tra trên thị trường Hoa Kỳ. Một cách khác mà các đại biểu thường thực hiện là đề xuất và thúc đẩy các cơ quan lập pháp và hành pháp.

Chính quyền trung ương:.

Bởi vì Hiến pháp Liên bang quy định, quyền hạn của chính quyền trung ương chủ yếu tập trung ở các lĩnh vực có tác động đến toàn quốc như ngoại giao, quốc phòng và an ninh, quản lý thương mại quốc tế, quản lý di dân, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, và một số lĩnh vực khác.

Nhà Trắng – nơi sinh sống và công việc của Tổng thống Hoa Kỳ.

Chủ tịch quốc gia là người đứng đầu cơ quan hành pháp liên bang và được bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 4 năm. Mỗi chủ tịch quốc gia chỉ được phục vụ không quá 2 nhiệm kỳ theo pháp luật hiện hành. Quốc hội liên bang phải thông qua tất cả các dự luật liên bang và Chủ tịch quốc gia ký mới trở thành luật. Hiến pháp cho phép Chủ tịch quốc gia có quyền phủ quyết dự luật đã được Quốc hội liên bang thông qua.

Phó Chủ tịch, hơn 15 cơ quan và trên 60 ủy ban độc lập, hệ thống quản lý chính phủ Hoa Kỳ còn có. Các cán bộ quản lý do Chủ tịch bổ nhiệm và phải được Hạ viện thông qua. Ngoài Chủ tịch.

Trong hệ thống hành pháp liên bang, có Văn phòng Nhà Trắng, Văn phòng quản trị và tài chính, các hội đồng cố vấn. Vai trò quan trọng trong hoạch định chính sách của Tổng thống được đảm nhận bởi các hội đồng cố vấn. Đáng chú ý nhất là Hội đồng an ninh quốc gia, Hội đồng cố vấn kinh tế, và Hội đồng chính sách phát triển.

Tòa án liên liên bang bao gồm Hệ thống tòa án liên liên bang: Tòa án liên liên bang tối cao và các tòa án liên liên bang khu vực. Chánh án và các thẩm phán Tòa án tối cao liên liên bang do Tổng thống bổ nhiệm và được Thượng viện thông qua với nhiệm kỳ suốt đời. Những người này chỉ từ nhiệm khi họ muốn hoặc bị buộc tội. Tòa án tối cao liên liên bang có quyền vô hiệu hoá bất cứ luật lệ liên liên bang hoặc bang nào mà tòa xét thấy là trái với Hiến pháp. Ví dụ, năm 1897, Tòa án tối cao liên liên bang đã ra phán quyết bác bỏ luật của Bang Louisiana cấm mua bảo hiểm của các hãng bảo hiểm ngoài bang trừ phi các hãng bảo hiểm đó đáp ứng được một số điều kiện tiên quyết nhất định.

Trụ sở Tòa án cao nhất Liên bang Hoa Kỳ.

Hệ thống chính trị Hoa Kỳ chủ yếu do hai Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa kiểm soát. Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ là các phe chính trị. Đảng Dân chủ quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục và việc làm cho người nghèo. Do vậy, Đảng Dân chủ được đông đảo người nghèo và giới công đoàn ủng hộ. Đảng này chủ trương tăng cường quyền quản lý hành chính trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội.

Các tầng lớp trung lưu, các lực lượng tài phiệt và giới chuyên gia là những đối tượng mà Đảng Cộng hòa thường chú ý nhiều hơn. Đảng này mong muốn giảm bớt sự can thiệp của chính phủ đối với nền kinh tế, để nền kinh tế hoạt động theo quy tắc của thị trường. Trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại, Đảng Cộng hòa tăng cường sức mạnh quân sự và mạnh mẽ hơn trong việc giải quyết các xung đột quốc tế. Ngược lại, Đảng Cộng hòa muốn giảm bớt sự can thiệp của chính phủ đối với nền kinh tế, để nền kinh tế hoạt động theo quy tắc của thị trường.

Ứng viên Đảng Cộng hòa thường có lợi thế tại các tiểu bang phía Nam trong các cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ, trong khi đó ứng viên Đảng Dân chủ thường có lợi thế tại các tiểu bang phía Bắc.

Biểu tượng của Đảng Dân chủ là con lừa và của Đảng Cộng hoà là con voi.

Hệ thống quản lý tiểu bang: Nói chung, hệ thống quản lý tiểu bang cũng tương tự như hệ thống quản lý liên bang. Chủ tịch tiểu bang đứng đầu cơ quan hành pháp tiểu bang. Chủ tịch tiểu bang được cử tri bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 2 hoặc 4 năm tuỳ theo tiểu bang. Có tiểu bang giới hạn số nhiệm kỳ của chủ tịch, có tiểu bang không. Ngoài quyền hành pháp, chủ tịch tiểu bang còn có quyền đề xuất và phủ quyết pháp luật tiểu bang, và một số quyền pháp lý khác.

Tỉnh, thành phố, thị xã và làng là cấp dưới của tiểu bang. Quốc hội tiểu bang có quyền sửa đổi và thông qua ngân sách của tiểu bang dựa trên đề xuất của thống đốc tiểu bang, bao gồm cả việc tăng, giảm hoặc thuế. Quốc hội tiểu bang cũng có quyền ban hành một số luật áp dụng trong tiểu bang, đặc biệt là trong các lĩnh vực chăm sóc xã hội như y tế, giáo dục, an toàn, đạo đức và phúc lợi của người dân trong tiểu bang. Cấp tiểu bang cũng có một quốc hội tiểu bang, bao gồm 2 viện tương tự như ở cấp liên bang, trừ trường hợp của tiểu bang Nebraska chỉ có một viện.

Vận động hành lang có thể được coi là một trong những đặc điểm nổi bật của chính trị Hoa Kỳ. Ở Thủ đô Washington DC hiện nay, có hơn 12 nghìn người chuyên nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Các tổ chức công đoàn, doanh nghiệp, hiệp hội kinh doanh, nhóm tôn giáo, trường đại học, các bang, tổ chức xã hội, và thậm chí chính phủ nước ngoài cũng đều thực hiện các hoạt động vận động hành lang.

Được cho phép bởi luật pháp Hoa Kỳ, việc lưu thông hành lang được coi là một hình thức thể hiện ý kiến của công chúng đến các cơ quan quản lý quốc gia. Thực tế, các nhóm lợi ích thường tiến hành các hoạt động lưu thông hành lang nhằm ảnh hưởng đến quyết định lập pháp và hành chính nhằm phục vụ lợi ích của mình. Ngoài ra, lưu thông hành lang cũng có thể không liên quan đến một biện pháp pháp lý hoặc chính sách hoặc quyết định cụ thể mà chỉ nhằm khuyến khích cho một quan điểm hoặc một mối quan tâm cụ thể.

Các cơ quan quản lý nhà nước có thể tận dụng thông tin và lập luận thu thập được từ các hoạt động thuyết phục để hỗ trợ công việc lập pháp và hành pháp của mình. Vì vậy, việc thuyết phục không chỉ đơn thuần là đề xuất hoặc mong muốn, mà còn phải cung cấp các lập luận, bằng chứng và chứng cứ khoa học có sức thuyết phục.

Được triển khai thông qua các cuộc biểu tình, thông qua các tổ chức đại diện công chúng, đảng phái, thậm chí thông qua các chiến dịch truyền thông, thuê các công ty hoặc cá nhân chuyên nghiệp đại diện thực hiện những công việc đã đề cập, cũng có thể do nhóm hoặc cá nhân có lợi ích trực tiếp thực hiện bằng cách họp, gọi điện thoại, hoặc gửi đề xuất đến các nghị sĩ của mình cũng như với các cơ quan chính phủ.

Kể từ thời điểm ký kết hợp đồng với khách hàng hoặc từ khi bắt đầu tiếp xúc với khách hàng, thời hạn đăng ký là trong vòng 45 ngày. Các tổ chức và cá nhân chuyên nghiệp trong việc cung cấp dịch vụ vận động hành lang phải đăng ký với Quốc hội, trừ trường hợp có mức phí dịch vụ dưới 5.000 USD trong 6 tháng.

Các hoạt động di chuyển trong các khu vực của quốc hội và chính quyền trung ương và các bang diễn ra tại Thủ đô Washington DC và các thủ phủ của các bang mà hầu hết các tổ chức kinh doanh và công ty lớn của Hoa Kỳ có đại diện của họ.

Các công ty Mỹ đặc biệt quan tâm đến các vòng đàm phán thương mại đa biên và song phương giữa Mỹ và các nước trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Họ thường xuyên vận động và thậm chí gây áp lực với Quốc hội và Chính phủ liên bang để đảm bảo kết quả các cuộc đàm phán thương mại quốc tế có lợi cho hoạt động kinh doanh của mình.

Ví dụ, các doanh nghiệp sản xuất dệt may trong nước Hoa Kỳ đã liên tục áp lực Quốc hội và Chính phủ để đàm phán sớm hiệp định dệt may với Việt Nam và thậm chí yêu cầu áp đặt hạn chế nhập khẩu từ Việt Nam trong vấn đề hạn chế dệt may. Ngược lại, các doanh nghiệp nhập khẩu và bán lẻ trong nước Hoa Kỳ đã tích cực thuyết phục Chính phủ Hoa Kỳ không áp dụng hạn chế nhập khẩu hoặc áp đặt hạn chế cao đối với Việt Nam. Nhiều công ty từ cả hai phía đã gửi đại diện đến Việt Nam và Washington DC để tham gia quá trình đàm phán nhằm đạt được lợi ích tối đa cho những mặt hàng mà họ quan tâm.