Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam

Bộ môn Hóa sinh.

Cơ thể duy trì sự cân bằng bằng cách sử dụng ba cơ chế khác nhau: hệ thống lọc, hệ thống hít thở và hệ thống tái hấp thụ.

Tình trạng nhiễm độc nặng sẽ dẫn đến tình trạng ngất và tử vong do ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương. Trái lại, sự nhiễm độc kiềm lại kích thích hệ thần kinh trung ương, dẫn đến tình trạng dễ bị kích thích, chứng co giật và thậm chí có thể gây tử vong. Nhìn chung, sự nhiễm độc toan có nguy cơ gây nguy hiểm tính mạng cao hơn so với nhiễm độc kiềm.

Các chỉ số cơ bản trong huyết quản đang được chỉ định để kiểm tra bao gồm độ axit, áp lực riêng của phần oxy và carbon dioxide, và nồng độ bicarbonate. Xét nghiệm này rất hữu ích trong việc chẩn đoán và theo dõi các trường hợp có thể gặp phải rối loạn thăng bằng acid-base trong cơ thể (như nhiễm độc chuyển hóa, nhiễm độc hô hấp, nhiễm kiềm chuyển hóa, nhiễm kiềm hô hấp).

khi1

* Độ axit của máu:

Nhiệm vụ quan trọng của hai cơ quan chính là thận và gan là duy trì sự cân bằng nội bộ trong quá trình trao đổi chất của pH. Khi máu bị toan hoá, bicarbonate sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc chấp nhận các ion hydro dư thừa. Tuy nhiên, cơ chế này chậm hơn so với quá trình hô hấp và cần mất thời gian từ vài giờ đến 3 ngày để có hiệu lực. Nồng độ bicarbonate trong máu sẽ tăng lên để trung hòa bất kỳ acid dư thừa nào và ngược lại, khi có hiện tượng alkalaemia, quá trình kiềm hóa sẽ xảy ra.

Hàm logarit âm của nồng độ ion H+ trong huyết quản được gọi là độ axit của huyết quản. Để đảm bảo nhiều phản ứng hóa học xảy ra trong cơ thể, độ axit của huyết quản trong khoảng giới hạn bình thường là điều cần thiết. Khoảng giới hạn bình thường của độ axit của huyết quản động mạch là từ 7,35 đến 7,45. Nếu độ axit của huyết quản đạt mức 7,45, nó được xem là tình trạng kiềm hóa huyết quản (alkalosis) hay nhiễm kiềm huyết quản (alkalemia).

Phạm vi giá trị thông thường: 7,35 – 7,45.

-Các yếu tố góp phần làm thay đổi kết quả xét nghiệm: Các thuốc có thể làm tăng pH máu: natri bicarbonat.

* Áp suất riêng của khí carbon dioxide (PCO2, PaCO2).

Áp lực tổng hợp do khối lượng CO2 hòa tan trong máu tạo ra, được ký hiệu là PaCO2, là áp lực chung của CO2 trong máu trên đường động mạch. Áp lực này được đo bằng đơn vị mmHg hoặc torr (1 torr = 1 mmHg).

Tăng nồng độ khí CO2 trong huyết thanh, còn được gọi là tăng khí CO2 máu hoặc tăng thán khí, xảy ra khi phổi không thể loại bỏ đủ khí CO2 khỏi cơ thể, dẫn đến tình trạng nhiễm độc máu. Triệu chứng và dấu hiệu của rối loạn này bao gồm đau đầu, chóng mặt và giảm ý thức.

Nhiễm kiềm là trạng thái khi nồng độ CO2 trong huyết khối giảm do phổi thải nhiều khí CO2 hơn bình thường. Rối loạn này gây ra cho bệnh nhân cảm giác kiến bò hoặc tê các chi, co giật cơ, đau đầu và chóng mặt.

Phạm vi thông thường của PaCO2 là từ 35 đến 45 mmHg.

Những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm bao gồm:

  • Có thể xảy ra một giá trị PaCO2 thấp giả tạo do khi lấy mẫu máu xét nghiệm không đẩy hết khí ra khỏi ống tiêm.
  • Các loại dược phẩm có khả năng tăng PaCO2 bao gồm: aldosterone, acid ethacrynic, hydrocortison, metolazon, prednison, natribicarbonat và các loại thuốc lợi tiểu thuộc nhóm thiazid.
  • Những loại thuốc có thể hạ thấp PaCO2 bao gồm: Acetazolamid, dimercaprol, methicillin, nitrofurantoin, tetracylin và triamteren.
  • * Bicarbonate (HCO3-).

    Bicarbonat hoạt động cùng với acid carbonic giúp cơ thể điều hòa pH máu. Có 2 cách đo nồng độ bicarbonat máu:.

    Phương thức số 2: Thực hiện đo trực tiếp nồng độ. + Cách thứ nhất: Thực hiện đo trực tiếp nồng độ.+ Phương pháp thứ hai: Thực hiện thao tác đo nồng độ trực tiếp.

    Cách thứ hai là sử dụng công thức sau đây để đánh giá gián tiếp thông qua giá trị tổng hợp CO2 và PaCO2.

    HCO3- tương đương với CO2 toàn phần trừ đi (0,03 nhân PaCO2).

    Khi nồng độ bicarbonate-.

    Khi nồng độ HCO3- > 26, giá trị này được xem là sự kiềm hoá máu.

    Giá trị thông thường: 22-26 mEq/l hoặc 22-26 mmol/l.

    Những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm:

  • Những loại thuốc như muối kiềm hay thuốc lợi tiểu có thể giúp tăng nồng độ HCO3-.
  • Các loại thuốc có thể giảm độ nồng của HCO3- là các muối axit.
  • * Dư và thiếu kiềm (Base excess / deficit).

    Tất cả thông tin về các ion âm trong hệ đệm được cung cấp thông qua việc xác định các thông số dư và thiếu kiềm, đồng thời cũng cho biết rằng sự thay đổi trong thăng bằng toan kiềm có nguồn gốc từ quá trình hô hấp hoặc không phải từ quá trình hô hấp.

  • Một số liệu.
  • Một chỉ số > +2mEq/l cho thấy có sự dư thừa kiềm trong cơ thể (base excess).
  • Phạm vi giá trị thông thường: từ -2 đến +2 mEq/l.

    * Các không bình thường về độ axit và kiềm có thể xảy ra trong thực tế lâm sàng.

    Những trạng thái như sử dụng thuốc gây mê, bệnh hen phế quản, ngừng tim, viêm phế quản nhẹ, suy tim, rối loạn ứ huyết, khí thủng phổi, chấn thương não, rối loạn thần kinh cơ, tình trạng thừa cân, hội chứng Pickwick, viêm phổi, phù phổi cấp và suy giảm chức năng hô hấp có thể dẫn đến tăng PCO2 bởi vì họ giảm thông khí trong hệ thống hô hấp.

    Xơ hóa phổi thành nang ở người trưởng thành, hụt máu, tình trạng lo lắng, ngộ độc khí carbon monoxid, chảy máu não, sốt, suy tim, giảm oxy trong mô, thiết lập các thông số của máy thở không phù hợp, tắc nghẽn mạch cơ tim, tình trạng đau đớn, mang thai (trong 3 tháng cuối), ngưng tim phổi là một số trường hợp có thể dẫn đến kiềm hô hấp (giảm PCO2 do tăng thông khí).

    Dừng tim, nhiễm toan ceton do bệnh đái tháo đường, tiêu chảy, suy thận, nhiễm toan do bệnh ống thận, nhiễm toan ceton do đói ăn đều là những nguyên nhân gây giảm HCO3- do sản xuất acid hoặc mất HCO3- quá mức trong quá trình chuyển hóa.

    Sử dụng thuốc giúp đào thải nước tiểu, giảm mức độ Clo trong máu, giảm mức độ Kali trong máu và cung cấp sự cân bằng natri bicarbonat bằng cách sử dụng thuốc trung hòa acid dịch vị, thực hiện xông hút liên tục để loại bỏ dịch vị trong dạ dày, truyền natri bicarbonat, nôn nhiều để kiềm chế quá trình chuyển hóa (tăng HCO3- do lượng HCO3- trong khẩu phần thức ăn hoặc lượng lactat quá nhiều hoặc do tình trạng mất ion Cl-, H+ và K+).

    * Áp suất riêng của oxy (PaO2, PO2).

    Được gọi là áp lực riêng phần oxy trong máu động mạch (viết tắt là PaO2), tổng áp lực do lượng O2 hòa tan trong máu tạo ra được đo bằng mmHg hoặc torr. Thông số này được sử dụng để đánh giá hiệu quả chức năng oxy hóa máu của phổi. Khi giá trị PaO2 dưới mức bình thường, bệnh nhân sẽ được xem là có tình trạng giảm oxy máu.

    Tác động trực tiếp của khí oxy được bệnh nhân hít vào là PaO2. PaO2 giảm theo độ tuổi ở người bình thường: đến khi đạt độ tuổi 30, PaO2 có giá trị > 90 mmHg, đến khi đạt độ tuổi 80, PaO2 có giá trị > 80 mmHg.

    Khi người bệnh hít thở không khí trong nhà hoặc ngoài trời, mức độ bình thường của chỉ số này nằm trong khoảng từ 75 đến 100 mmHg. Trong khi đó, PaO2 sẽ giảm dần theo tuổi ở những người cao tuổi.

    Tăng mức oxy huyết trong cơ thể: Áp dụng cho bệnh nhân hít oxy với liều lượng lớn, khi có tình trạng tăng số lượng hồng cầu.

    Suy giảm sức khỏe do thiếu máu, xẹp phổi, suy tim trong giai đoạn không được bù đắp, khí phế thũng, hạn chế thông khí phế nang, nồng độ oxy trong không khí bị giảm, viêm phổi, phù phổi, và tắc mạch phổi đều có thể gây ra sự giảm PaO2.

    Vì không đẩy hết khí khỏi ống tiêm khi thu máu động mạch, có thể xảy ra tình trạng giả tạo tăng giá trị PaO2 và có những yếu tố góp phần làm thay đổi kết quả kiểm tra.

    Khi cho hít oxy tinh khiết trong vòng 20 phút, hàm lượng PaO2 sẽ tăng lên đến > 500 mmHg, đó là một lợi ích của việc kiểm tra áp suất riêng phần của oxy trong máu động mạch. Nếu giá trị PaO2 khi cho hít oxy 100% không đạt được mức trên, cho thấy bệnh nhân đang gặp vấn đề về lưu thông máu phổi thực sự.

    * Nồng độ oxy (oxygen concentration):.

    Số liệu đánh giá lượng oxy thực tế đang được chuyển đến trong tuần hoàn máu được gọi là nồng độ oxy. Công thức được sử dụng để tính toán giá trị này là:

    Để tính toán nồng độ oxy, ta có thể chia tỷ lệ oxy huyết tương cho 100%, nhân với số lượng hemoglobin và 1,34, sau đó thêm vào đó giá trị của áp suất oxy huyết tương nhân với 0,003.

    Giá trị thông thường:

  • Lượng máu động mạch là 15-22 ml/ 100 ml máu hoặc tương đương với 15-22%.
  • Mức độ máu tĩnh mạch: 11-16 ml/100 ml máu tương đương với 11-16%.
  • Các bệnh như viêm phế quản mạn tính, khí phế thũng, mảng sườn di động, giảm lưu lượng không khí trong phế quản, gù vẹo cột sống, suy giảm hoặc liệt thần kinh- cơ, béo phì và các biến chứng hô hấp sau phẫu thuật đều có thể dẫn đến giảm nồng độ oxy trong máu.

    * Nồng độ oxy hòa tan (SaO2, SO2, O2 SAT).

    Giá trị độ bão hòa oxy là chỉ số so sánh giữa lượng oxy thực tế đang được vận chuyển bởi hemoglobin và lượng oxy tối đa mà hemoglobin có thể vận chuyển được.

    Giá trị thông thường: từ 95-100%.

    Để tăng hàm lượng oxy trong máu: Thường xuyên sử dụng oxy liệu pháp là nguyên nhân chính.

    Giám đốc bị bão hòa oxy máu: Thường xuyên xảy ra chủ yếu do ngộ độc carbon monoxit (CO), gây ra giảm lượng oxy máu.

    Sự bão hòa của oxy trong máu động mạch có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm áp suất riêng phần của oxy trong máu, nhiệt độ cơ thể, pH của máu và cấu trúc của hemoglobin. Khi những yếu tố này thay đổi, kết quả xét nghiệm có thể bị ảnh hưởng.

    Nguồn:.

  • ”Các kiểm tra thường được sử dụng trong thực tiễn lâm sàng”.
  • Https://en.Wikipedia.Org/wiki/Arterial_blood_gas.
  • Cập nhật tin mới hơn:

    Tin đã lâu hơn: