Bệnh viện Đa khoa Quảng Nam

Hồ Thiên Diễm – một sinh viên thuộc Khoa PT-GMHS.

I. Tổng quan.

Chăm sóc bệnh nhân sau ca phẫu thuật là một nhiệm vụ quan trọng nhằm phát hiện kịp thời các vấn đề sau phẫu thuật, ngăn ngừa và xử lý các biến chứng. Chăm sóc sau phẫu thuật đóng góp quan trọng đến sự thành công của ca phẫu thuật. Giai đoạn sau phẫu thuật là giai đoạn có nhiều vấn đề về sinh lý như đau đớn, biến chứng về tim mạch, hô hấp, chức năng thận, hạ thân nhiệt, rối loạn đông máu,… Thời gian sau phẫu thuật được chia thành 3 giai đoạn.

saumo1

Giai đoạn đầu sau mổ kéo dài từ 3-5 ngày.

Trong giai đoạn thứ hai, sau mổ, thời gian là 2-3 tuần.

Giai đoạn 3 kéo dài cho đến khi người bệnh khôi phục được khả năng hoạt động và làm việc.

Nhiệm vụ của dịch vụ chăm sóc sau phẫu thuật là giám sát và tham gia vào quá trình can thiệp trong giai đoạn 1 và giai đoạn 2 để:

Sau phẫu thuật, chúng ta có kế hoạch và phương pháp để điều trị các vấn đề phát sinh.

Quá trình liền sẹo được tăng cường.

Cải thiện khả năng thực hiện các hoạt động hàng ngày và lao động.

II. Các vấn đề chăm sóc sau phẫu thuật đường tiêu hóa.

1. Dẫn lưu được chăm sóc đặc biệt.

Trong lĩnh vực phẫu thuật đường tiêu hóa, có hai loại dẫn lưu thường được áp dụng.

Các loại dẫn lưu (Maletcot, Pezzer, Nelaton) được sử dụng trong các ống rỗng có chức năng lưu trữ và dịch chuyển chất lỏng.

Dẫn lưu hình chữ T (Dẫn lưu Kehr) là dẫn lưu đường mật.

Ống dẫn lưu được sử dụng để thấp hoặc hút liên tục tuỳ theo yêu cầu của phẫu thuật và cần đảm bảo thông suốt để dẫn lưu dịch, máu chảy một chiều từ bên trong ra bên ngoài. Việc theo dõi màu sắc của dịch, máu qua ống dẫn lưu rất quan trọng, và khi có bất kỳ dấu hiệu bất thường nào, cần tìm nguyên nhân và can thiệp kịp thời.

Sáng tạo: – Tiến hành vệ sinh và khử trùng vùng xung quanh ống dẫn chứa chất lưu.

Sau khi phẫu thuật, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe.

Phương pháp nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch: Thường phải thực hiện nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch cho đến khi quá trình tiêu hóa bình thường trở lại (Bệnh nhân có thể đi ngoài và điều tiết đại tiện). Đối với bệnh nhân cần nuôi dưỡng trong thời gian dài, nên sử dụng catheter tĩnh mạch cảnh ngoài hoặc dưới đòn, đảm bảo cung cấp đủ năng lượng, điện giải, protein, lipid,….

Nuôi dưỡng bằng cách cho bệnh nhân ăn và uống qua đường miệng khi có khả năng tiêu hóa. Đầu tiên, cung cấp cho bệnh nhân thức ăn lỏng như sữa, súp, cháo. Sau đó, tùy thuộc vào tình trạng của bệnh nhân, dần dần cho ăn thức ăn đặc hơn.

Không nên ăn chất xơ vào buổi sáng vì có thể gây tắc ruột do bã thức ăn. Đối với việc cắt dạ dày, nên chia thành nhiều bữa ăn nhỏ.

3. Chế độ thể dục và sinh hoạt.

Sau khi phẫu thuật 12 giờ, bệnh nhân nên được khuyến khích vận động tại giường như tập thở bụng, xoay trở tư thế và xoa bóp kích thích tuần hoàn lưu thông. Đồng thời, cần tránh ho khạc để tránh tình trạng ứ đọng. Bệnh nhân cũng nên được cho ăn sớm và thực hiện vật lý trị liệu cũng như thể dục liệu pháp. Sau 24-48 giờ, bệnh nhân có thể được khuyến khích tập đi lại quanh giường để giúp nhu động ruột trở lại nhanh chóng.

saumo2

Bệnh nhân được khuyến khích vận động sớm và thực hiện việc vỗ rung phổi.

4. Thực hiện quá trình hút chất lỏng trong dạ dày.

Sau mổ, trong những ngày đầu, bệnh nhân có thể gặp tình trạng liệt ruột dẫn đến ứ đọng dịch ở dạ dày và ruột, gây khó chịu và căng các miệng nối. Do đó, để giúp bệnh nhân dễ chịu và tránh tình trạng bục các miệng nối, ta nên hút dịch dạ dày vào buổi sáng hoặc khi bệnh nhân cảm thấy đầy bụng.

5. Chăm sóc sau phẫu thuật.

Hằng ngày, hãy kiểm tra vết mổ và thay băng.

Băng chèn hoặc băng ép cầm máu có thể được giữ trong khoảng từ 1 đến 3 ngày.

Với việc chăm sóc da, người lớn cần cắt chỉ sau 7 ngày, trong khi trẻ em cần cắt chỉ sau 10-14 ngày.

Cần cắt đi những nốt chỉ nề, rỉ dịch sớm, ở khoảng cách quảng.

III. Chăm sóc và quan sát một số triệu chứng sau phẫu thuật.

1. Nôn:.

Thường xảy ra ở những bệnh nhân bị gây mê kéo dài hoặc do sử dụng thuốc, đặc biệt là Morphin.

Trị liệu: nằm ngửa với đầu hơi nghiêng về một bên để tránh sự tràn đầy của chất nôn vào đường hô hấp. Hít vào nước dạ dày.

Ondansetron là một loại thuốc được sử dụng để điều trị buồn nôn và nôn mửa. Liều lượng khuyến nghị là 4mg mỗi lần, có thể uống 1-2 lần mỗi ngày.

2. Nấc:.

Trong quá trình mổ, thường xảy ra hiện tượng co kéo của nhiều vùng trong dạ dày, thực quản và dây thần kinh X, do tác động của thuốc gây mê. Sau khi mổ, cơ hoành co thắt đột ngột và kéo dài.

Công việc: Giúp bệnh nhân điều chỉnh hơi thở nhanh hơn, thở sâu và ngừng thở; Áp lực lên thần kinh hoành ở cả hai bên khí quản; Nếu không thành công, có thể sử dụng thuốc.

Primperan 10mg TTM được sử dụng như một công cụ rewrite tiếng Việt, nhằm tạo ra một đoạn văn sáng tạo hơn.

0.5mg Atropin được sử dụng thông qua phương pháp tiêm truyền tĩnh mạch (TTM).

3. Cảm giác đau bụng sau khi phẫu thuật:

Sau phẫu thuật bụng, có thể xảy ra hiện tượng liệt ruột cơ năng trong khoảng thời gian từ 24 đến 72 giờ sau phẫu thuật, điều này có thể gây khó khăn trong hô hấp.

Xử lý: Thay đổi tư thế, hút chất lỏng và khí dạ dày, đặt Microlax vào ruột non để kích thích tiêu hóa.

Bí tiểu: 4.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có thể là do sự ảnh hưởng của thuốc gây mê hoặc tê tủy sống, phẫu thuật tầng sinh môn và thói quen không thể đi tiểu khi nằm.

Xử lý: Hỗ trợ bệnh nhân ngồi hoặc đứng dậy để đi tiểu, áp dụng nhiệt đới lên vùng hạ vị.

Nospa 40mg TDD là một loại thuốc chống co thắt.

Nếu các phương pháp trên không thành công, thông tiểu cần được thực hiện với sự đảm bảo về vô khuẩn.

5. Cảm giác đau trong vùng bụng.

Đau nông: Cảm giác đau sau phẫu thuật do việc khâu lại vết mổ.

Trong trường hợp đau bên trong, nguyên nhân có thể do rối loạn thần kinh hoặc sự co giãn của các tạng trong ổ bụng.

Xử trí: Điều trị căng thẳng, giảm đau và sử dụng thuốc chống co cơ.

6. Cơn đau đầu vừa xuất hiện.

Nguyên nhân gây ra có thể là do tác dụng của thuốc gây mê, tê tủy sống, sự mệt mỏi hoặc tiếng ồn.

Thưởng thức cảm giác nóng hoặc lạnh của chờm, mang lại sự thư thái và giảm đau.

IV. Phát hiện và xử trí biến chứng sớm sau ca phẫu thuật.

Sau khi phẫu thuật, tôi cảm thấy không thể tin nổi.

Nguyên nhân của hiện tượng này là do mất máu.

Các dấu hiệu/sự nhận biết:

Khiến cơ thể kích thích, gây ra hiện tượng mồ hôi, làm da trở nên lạnh, niêm mạc mờ nhạt. Cảm giác nặng nề đến mức chỉ muốn nằm yên và không có hứng thú.

Thở hổn hển hoặc thở suy yếu.

Mạch tim tăng cao hơn 100 lần/phút, huyết áp hạ thấp dưới 90 mmHg.

Giải quyết:

Đảm bảo lưu thông đường thở bằng việc hít thở oxy.

Hoạt động như một công cụ rewrite tiếng Việt, tôi sẽ viết lại đoạn văn nhập vào để làm nó sáng tạo hơn. Đoạn văn nhập vào là: “Truyền dịch, máu.””Tiêm chất lỏng, máu.”

Cứu nguyệt.

Dự trữ:

Bệnh nhân được di chuyển một cách nhẹ nhàng.

Đảm bảo sự thông thoáng của đường hô hấp.

Theo dõi tận cùng sự sống.

Sau mổ, máu chảy.

Nguyên nhân của hiện tượng này có thể do sự kém hiệu quả của hệ thống cầm máu hoặc sự không đồng bộ trong quá trình đông máu.

Các dấu hiệu/sự nhận biết:

Da nhợt, lạnh, vã mồ hôi, mạch nhanh, huyết áp hạ.

Bụng sưng phồng, có cảm giác đau ở vùng dưới, thậm chí có xuất hiện hiện tượng ra nhiều máu, máu có màu đỏ tươi và có hình dạng như cục.

Nếu có chảy máu trong đường tiêu hóa, bệnh nhân sẽ nôn ra máu tươi, có cục máu đông, dạ dày sẽ ra máu và có thể có biểu hiện mất máu toàn thân.

Giải quyết:

Trong trường hợp nhẹ và khi có triệu chứng không điển hình, có thể thực hiện các biện pháp như theo dõi lâm sàng, xét nghiệm, truyền máu và sử dụng thuốc cầm máu như transamin.

Cần phẫu thuật ngay lập tức để ngừng máu trong những trường hợp có triệu chứng rõ ràng hoặc không có hiệu quả sau điều trị bảo tồn.

Nếu phẫu thuật đã lâu và có chảy máu miệng nối dạ dày-ruột, ta có thể thực hiện các bước sau: đặt ống Faucher, rửa dạ dày bằng nước ấm có nhiệt độ từ 37-40oC (với lượng nước trên 10 lít) cho đến khi nước không còn màu.

3. Viêm nhiễm sau phẫu thuật.

Nhiễm trùng sau phẫu thuật là một biến chứng phổ biến, xảy ra ở tỷ lệ từ 0,1-0,2%.

Giải quyết: Cắt chỉ và rạch rộng vết mổ, dẫn lưu nếu có mủ.

Dự trữ: cần đảm bảo nguyên tắc vô khuẩn, sát trùg kĩ vùng rạch da trước và sau mổ. Cầm máu kỹ, không để lại các ổ máu tụ và khoảng trống dưới vết khâu. Nặn hết dịch trước khi kết thúc phẫu thuật. Sau mổ thay băng kiểm tra, kịp thời cắt một vài nốt chỉ và nặn dịch nếu có.

Sau mổ, viêm phổi có thể xảy ra.

Phân biệt biến chứng này thường xảy ra ở những người mắc các vấn đề về hệ hô hấp hoặc trẻ em do sự tắc nghẽn của các đường phế quản nhỏ.

Thường xuyên xuất hiện do sự phòng ngừa, tắc nghẽn, viêm nhiễm trong đường hô hấp sau phẫu thuật do cảm giác đau khi bệnh nhân không di chuyển, hô hấp bị giới hạn, do tác động của thuốc gây mê kéo dài, do hít vào đường hô hấp chất nôn.

Cách thể hiện:

Tôi đau ngực và sốt.

Phổi có những đường nét mềm mại.

X-Quang cho thấy một hình ảnh về viêm phổi.

Giải quyết:

Bệnh nhân nên được khuyến khích ngồi dậy sớm, vỗ nhẹ vào vùng phổi và thực hiện các động tác kích thích ho khạc đàm.

Thuốc long đàm có tác dụng làm giãn phế quản thông qua khí dung và cũng là một loại kháng sinh.

5. Hậu quả của phẫu thuật gây viêm nhiễm ở mắt.

Biến chứng này thường xảy ra do ống tiêu hóa bị bục, hoặc mật chân Kehr rò ra. Thường thì nó xuất hiện từ ngày thứ 3-5 sau khi mổ.

Cách thể hiện:

Tôi đau bụng một cách kinh khủng, bị tắc trung – đại tiện.

Toàn bộ cơ thể hiển thị triệu chứng nhiễm trùng, nhiễm độc và sốt cao sau khi phẫu thuật.

Bụng căng trướng, bụng trở nên sưng lên, túi Douglas cũng phình to và gây đau.

Có thể sử dụng siêu âm ổ bụng để phát hiện các loại dịch như dịch mật hoặc dịch tiêu hóa.

Giải quyết: mổ lại sớm để giải quyết nguyên nhân.

Tôi đã trải qua một ca phẫu thuật và sau đó gặp vấn đề tắc ruột.

Nguyên nhân của tình trạng này là do sự dính, xoắn ruột sau một ca phẫu thuật, thường xảy ra từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 5 sau khi đã có trung tiện.

Cách thể hiện:

Đau bụng tới từng trận, cảm giác nôn mửa và khó tiêu.

Bụng sưng phồng, ruột đau nhức.

Ổ bụng được xem qua quá trình chụp X-quang, có mức độ hơi nước.

Giải quyết: Hút dịch dạ dày, nuôi ăn đường tĩnh mạch, kháng sinh. Nếu không cải thiện mổ lại để giải quyết nguyên nhân.

Các yếu tố ảnh hưởng đến diễn biến của từng bệnh nhân sau mổ bao gồm cơ địa của bệnh nhân, tình trạng bệnh lý, tổn thương và bệnh lý phối hợp, mức độ can thiệp phẫu thuật… Do đó, việc chăm sóc bệnh nhân sau mổ đóng vai trò quan trọng để phát hiện sớm và ngăn ngừa các biến chứng, đồng thời đảm bảo thành công của ca phẫu thuật và phục hồi tốt nhất cho bệnh nhân.

Tin mới nhất:

Bản tin cũ hơn: