Đại phá quân Thanh giải phóng Thăng Long

Tượng đài Hoàng đế Quang Trung tại TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.

Sau khi Nguyễn Huệ rút quân về phía Nam, tình hình ở Bắc Hà trở nên hỗn loạn. Vua Lê Chiêu Thống không có năng lực, phải dựa vào Nguyễn Hữu Chỉnh để đàn áp gia đình Trịnh. Tuy nhiên, lại xảy ra tình trạng Chỉnh sau đó lợi dụng quyền lực và biến Vua thành một công cụ vô dụng trong tay mình.

Năm 1787, Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm đi tiêu diệt Chỉnh. Trong khi đó, Lê Chiêu Thống sợ hãi đã lẩn trốn. Vũ Văn Nhậm quyết định một cách tự ý đưa Lê Duy Cẩn, một con cháu của gia đình Lê, lên thay vị trí Giám quốc để bù đắp. Nhậm trước đây từng là một tướng thuộc tay chúa Nguyễn, nhưng đã bị Tây Sơn bắt và sử dụng. Bây giờ, anh ta có cơ hội ra Bắc và can thiệp vào mọi việc, điều này làm mất lòng dân chúng.

Trong tháng 5 năm 1787, để duy trì ổn định tình hình tại Bắc Hà, Nguyễn Huệ đã tự mình dẫn quân đến định đoạt dinh Bắc Trấn và xử phạt tội ác của Vũ Văn Nhậm. Sự ổn định tạm thời đã trở lại cho người dân ở Thăng Long. Đây là lần thứ hai Nguyễn Huệ đến Thăng Long. Ông đã biết cách tôn trọng và sử dụng những người tài giỏi, đặc biệt là giới sĩ phu ở Bắc Hà. Nhiều người đã có cơ hội gặp gỡ và ngưỡng mộ anh hùng Nguyễn Huệ, và tự nguyện hợp tác với Tây Sơn để đảm bảo công việc dân việc nước. Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Võ Huy Tấn, và Đặng Tiến Đông là những người như vậy.

Năm 1787, sau khi trốn thoát khỏi Thăng Long, Lê Chiêu Thống đã tìm cách đến Trung Quốc. Tuy nhiên, vì lợi ích cá nhân của mình, Chiêu Thống đã phản bội tổ quốc và cầu cứu nhà Mãn Thanh. Họ đã sử dụng danh nghĩa của Lê Chiêu Thống để xâm lược miền Bắc nước ta với 29 vạn quân, được chia làm 3 đạo.

Ngô Thì Nhậm đã nghĩ ra một kế hoạch tự chủ động, đó là rút quân đội ra khỏi Thăng Long và đặt họ ở Tam Điệp (Ninh Bình) và Biện Sơn (Thanh Hóa). Đồng thời, ông đã thành lập một hệ thống phòng tuyến để bảo vệ lực lượng. Ông đã gửi thông tin về tình hình này tới Phú Xuyên và đang chờ lệnh từ Nguyễn Huệ để đưa ra quyết định tiếp theo.

Vào ngày 26/12/1788, quân đội Thanh đã xâm nhập vào thành Thăng Long, chiếm đóng Cung Tây Long và thiết lập một hệ thống phòng thủ chặt chẽ.

Hệ thống đồn lũy ở phía Nam có một điểm then chốt là đồn Ngọc Hồi, với số quân đóng cửa là 3 vạn. Đồn này được chỉ huy bởi Hứa Thế Hanh, là Phó tướng của Tôn Sĩ Nghị.

Ở hướng Tây Nam, có một đội quân khác dưới sự chỉ huy của Sầm Nghi Đống, một vị thống đốc quan trọng từ Điền Châu. Họ đặt trụ sở chính tại Khương Thượng, hiện nay thuộc quận Đống Đa.

Khi xâm chiếm Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị tỏ ra kiêu căng và tự mãn, cho quân đội cướp bóc và hãm hiếp dân. Kinh thành rơi vào tình trạng náo loạn.

Lê Chiêu Thống thường hang chờ trước doanh trại Tôn Sĩ Nghị ở Cung Tây Long (nay là khu vực Ngân hàng Nhà nước), mong nghe lệnh của tướng giặc. Sách Hoàng Lê Nhất Thống ghi lại: “Từ khi có đế vương, chưa có vua nào như ông, luôn cúi đầu và hèn hạ. Dù tự xưng là vua, nhưng niên hiệu lại mang tên Càn Long, mọi việc đều do viên Tổng đốc quyết định, giống như đã phụ thuộc vào Trung Quốc”….

Quân Thanh xâm lược và Lê Chiêu Thống phản dân hại nước đã bị tiết lộ. Sĩ phu và nhân dân Bắc Hà cảm thấy thất vọng và căm phẫn, chỉ chờ cơ hội để nổi dậy.

Ngày 21/12/1788 (tức 24 tháng 11 âm lịch Mậu Thân) Nguyễn Văn Tuyết vào cấp báo, đến Phú Xuân (Huế ngày nay).

Ngay sau đó, vào ngày 22/12/1788 (tức 25 tháng 11 Mậu Thân), chỉ sau 6 ngày kể từ khi quân Thanh xâm chiếm Thăng Long, tại Huế – Phú Xuân, Nguyễn Huệ đã tổ chức lễ lên ngôi Hoàng Đế với tên là Quang Trung. Ngay sau đó, ông đã chỉnh đốn binh mã và tiến đến miền Bắc để đánh bại quân địch đang xâm lược.

Hoàng đế Quang Trung đã nói:

“Chải để tóc dài.

Đánh quá mức để làm đen răng.

Đánh cho nó chích luân không thể tránh được.

Đánh cho nó một cú đánh không hoàn hảo.

Đánh cho quốc dân nam anh hùng có chủ nhân.

Lời dụ này đã thể hiện rõ mục đích của cuộc tiến quân là bảo vệ các truyền thống văn hóa dân tộc như tục làm tóc dài, nhuộm răng đen khác với người Tàu, và quyết tâm đánh giặc đến cùng, đánh cho kẻ xâm lược không kịp trở tay, thân không còn mảnh giáp. Đồng thời, nó cũng khẳng định chủ quyền quốc gia của Việt Nam, để lịch sử muôn đời biết rằng nước Nam anh hùng này là nơi đất có chủ.

Đoàn quân Quang Trung đã di chuyển nhanh chóng từ Bắc vào ngày 15/1/1789 (tức 20 tháng Chạp năm Mậu Thân) để nhận thêm quân tình nguyện tại Thanh-Nghệ. Chỉ sau 10 ngày, vào ngày 25/1 (tức 30 tháng Chạp), trùng với ngày giao thừa năm Kỷ Dậu, đoàn quân đã bắt đầu cuộc chiến chống lại quân Thanh tại Thăng Long, mở rộng khu vực chiến đấu sang phía Nam và phía Tây.

Đêm mồng 3 Tết, đồn Hạ Hồi (Thường Tín) bị bao vây, đẩy quân địch phải bỏ giáo xin hàng. Sau đó, quân tiến công lên đồn Ngọc Hồi (Thanh Trì), nằm cách Thăng Long 14 km.

Vào buổi sáng ngày thứ 5 của Tết, đội quân Tây Sơn dưới sự chỉ huy của Vua Quang Trung đã thực hiện một cuộc tấn công quyết liệt, đốt cháy hoàn toàn đồn Ngọc Hồi của địch và tiến vào thành Thăng Long một cách trực tiếp.

Đến Đầm Mực (thuộc xã Quỳnh Đô, hiện là thôn Quỳnh Đô, xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì), một phần giặc tháo còn lại đã bị cánh quân của Đô đốc Bảo bắt và biến nhiều mẫu Đầm Mực thành một nghĩa trang lớn, nơi chôn cất hàng vạn quân Thanh.

Vào buổi sáng sớm ngày thứ 5 Tết Kỷ Dậu, quân đội dưới sự chỉ huy của Đô đốc Long đã tiến về phía đồn Khương Thượng (hay còn gọi là đồn Đống Đa) thông qua đường núi để tấn công. Sau khi phá vỡ đồn Khương Thượng, họ tiếp tục đi qua ô Thịnh Quang (nay là ô Chợ Dừa) và tiến vào thành Thăng Long, đến Đại bản doanh của tướng Tôn Sĩ Nghị, đối thủ của quân giặc. Trận đánh này đã khiến Tôn Sĩ Nghị phải bỏ chạy qua cầu phao và rút về nước. Tuy nhiên, cầu bị gãy do quá tải, dẫn đến hàng ngàn quân lính bị đẩy xuống sông và thiệt mạng.

Kể từ ngày 16/12/1788, khi tên lính Mãn Thanh đầu tiên đặt chân lên đất Thăng Long, cho đến ngày 30/1/1789 (tức mồng 5 Tết năm Mậu Thân), khi kinh thành Thăng Long được giải phóng, quân Thanh đã chiếm giữ Thăng Long tổng cộng trong 45 ngày. Cuối cùng, khi Vua Quang Trung dẫn đầu đoàn hùng binh vào quét sạch quân thù xâm lược, tấm giáp bào của nhà Vua đã bị bao phủ bởi màu sắc đen xám của khói súng.

Nhằm bảo tồn di tích trận đánh, nhà vua đã quyết định chôn cất hàng vạn quân xâm lược thành bảy gò đắp cao. Hiện nay, chỉ còn lại một gò duy nhất là gò Đống Đa.

Bên cạnh gò Đống Đa, dân đã xây dựng ngôi chùa được gọi là Chùa Bộc, bên trong có một tượng quý, là tượng nhà Vua anh hùng ngồi xổm với một cận thần (?) Trong một tư thế giản dị, thân mật, rất dân dã. Đây là biểu trưng của người anh hùng từ nhân dân mà ra.

Qua ngọn lửa của cuộc chiến, Thăng Long đã trải qua những khoảnh khắc vĩ đại, nhưng cũng phải chịu tổn thương nặng nề. Văn Miếu-Quốc Tử Giám cũng không thoát khỏi số phận đó, nhà che bia bị thiêu rụi, tấm bia bị đạp đổ trong cuộc hỗn loạn. Dân của Trại Văn Chương (hiện nay là phường Văn Chương) đau lòng đồng lòng cầu xin Vua Quang Trung cho phép sửa chữa. Người gây ra thảm họa này chắc chắn không phải là quân Tây Sơn, vì vào thời điểm đó, họ đang tập trung vào nhiệm vụ chiến đấu chống địch. Tuy nhiên, khi Vua Quang Trung nhận được lời xin lỗi, ông đã sử dụng một vài câu thơ để tự nhận lỗi.

“Dứt đi, dứt đi, công việc đã xong.

Hãy cứ đổ lỗi vào ta, không sao đâu.

Và hứa:.

“Ngày mai sắp xếp lại nước nhà.

Bia nghè được xây dựng trên tòa nhà vô tận.

Trần Thái Bình là tên của một người.

(Nhà nghiên cứu về quá khứ).