Khuê Văn Các – kiến trúc biểu tượng tiêu biểu

Khuê Văn Các soi bóng xuống giếng Thiên Quang – Ảnh: TT HĐVHKH Văn Miếu – Quốc Tử Giám

Dẫn nhập

Kiến trúc không chỉ là một tòa nhà; một ngôi đền, đó là một hình thức giao tiếp và nghệ thuật, nó là một cấu trúc được con người xây dựng, đáp ứng những công năng cụ thể; và luôn phải đối diện trước thử thách của thời gian. Các công trình kiến ​​trúc ngay từ buổi bình minh của nền văn minh và đã phát triển theo thời gian để thể hiện sức mạnh hoặc đưa nghệ thuật và khoa học vào một công trình. Các công trình kiến ​​trúc trên khắp thế giới cung cấp cái nhìn sâu sắc về cuộc sống, văn hóa và các giá trị của tổ tiên chúng ta. Trong loại hình kiến trúc biểu tượng, những chiếc cổng thường được trở thành một loại kiến trúc biểu tượng (Symbolic architecture). Khải hoàn môn Paris, Brandenburg Gate Berlin hay cổng đền Itsukushima shrine của Nhật Bản từ một hạng mục kiến trúc trở thành công trình kiến trúc biểu tượng và hơn thế, đã thực sự trở thành một biểu tượng văn hóa của các quốc gia đó. Khuê Văn Các cũng như thế, đã trở thành biểu tượng của Thủ đô Hà Nội.

Mấy nét về Khuê Văn Các

Văn Miếu là nơi thờ Khổng Tử, được xây dựng ở kinh đô Thăng Long vào năm Thần Vũ thứ hai đời vua Lý Thánh Tông (tức năm 1070). Tới năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho lập ngay bên cạnh Văn Miếu trường Quốc Tử Giám – là trường dành riêng cho con vua và con em hoàng tộc, các bậc quyền quý.

Qua sử liệu và sách vở ghi chép cho ta hình dung về quy mô kiến trúc và lịch sử xây dựng của khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám chỉ từ thời Lê Sơ. Trong Ðại Việt sử ký toàn thư vào năm Quý Mão, niên hiệu Hồng Ðức thứ mười bốn (1483), Lê Thánh Tông, đã thực hiện một đợt đại trùng tu. Cũng theo bộ sử này, vào tháng 11 niên hiệu Hồng Thuận năm thứ ba (1511) vua Lê Tương Dực sai Nguyễn Văn Lang sửa lại điện Sùng Nho ở Quốc Tử Giám và 2 giải vũ, 6 nhà Minh luân, phòng bếp, phòng kho. Nhà bác học Lê Quý Ðôn trong Kiến Văn tiểu lục (viết năm 1777) như sau: “cửa Ðại Thành, nhà 3 gian 2 chái, lợp bằng ngói đồng (ngói ống), Ðông vũ và Tây vũ hai dãy đều 7 gian, đằng sau cửa nhỏ 1 gian, điện canh phục 1 gian 2 chái, nhà bếp 2 gian, kho tế khí 3 gian 2 chái, cửa Thái học 3 gian, có tường ngang lợp bằng ngói đồng (ngói ống), nhà bia phía Ðông và Tây đều 12 gian, kho để ván khắc sách 4 gian, ngoại nghi môn 1 gian, xung quanh đắp tường, cửa hành mã ngoài tường ngang 3 gian, nhà Minh luân 3 gian 2 chái. Cửa nhỏ bên tả và bên hữu đều 1 gian, có tường ngang. Nhà giảng dạy ở phía Ðông và phía Tây 2 dãy, mỗi dãy đều 14 gian. Phòng học của học sinh tam xá ở phía Ðông và phía Tây đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người.”. Qua ghi chép tỉ mỉ của Lê Quý Ðôn có thể chắc chắn rằng chưa hề có Khuê Văn Các.

Với cương vị là Tổng trấn Bắc thành, là một vị danh tướng văn võ toàn tài, Nguyễn Văn Thành đã cho sửa sang lại Văn Miếu. Trên bức hoành phi ghi ba chữ đại tự Khuê Văn Các có dòng lạc khoản đề: 嘉 隆 四 年 春 – Gia Long tứ niên, xuân (Làm tấm biển vào mùa Xuân, năm Gia Long thứ 4 – 1805).

Khuê Văn Các – Ảnh tư liệu đầu thế kỷ 20

Nhìn lại bối cảnh lịch sử những năm đầu thời Nguyễn

Theo lệnh vua Gia Long, khi kinh đô đặt ở Huế thì Quốc Tử Giám cũng không còn ở Thăng Long nữa. Kể từ đây Văn Miếu chỉ còn là nơi thờ Khổng Tử. Văn Miếu tuy đã có từ sớm nhưng việc lập bia vinh danh các vị đăng khoa chưa có trong thời Lý, Trần.Việc lập bia Tiến sĩ bắt đầu vào thời Lê Sơ. Lê Thánh Tông là bậc minh quân, tôn sùng Nho giáo. Năm 1484 đức Vua cho lập bia đá khắc tên các vị khoa bảng để vinh danh kẻ sĩ và cũng để giáo dục cho sĩ tử. Việc lập bia đề danh tiến sĩ đều có ở Trung Quốc, Hàn Quốc. Nhưng chỉ có bia đề danh tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám mới cho ta cảm nhận hết trọng trách của kẻ sĩ khi đặt vận mệnh của giang sơn xã tắc lên hai đôi vai. Ngay trong lần khắc bia đầu tiên của khoa thi Nhâm Tuất niên hiệu Ðại Bảo năm thứ 3 (1442), Thân Nhân Trung đã viết: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia là công việc trước nhất [Ngô Ðức Thọ (2010), Văn bia tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám Thăng Long, Nxb Hà Nội, tr.136]. Sở dĩ có những dòng chữ ca ngợi hiền tài trên những tấm bia Ðề danh tiến sĩ vì Văn Miếu suốt từ thời Lý không chỉ là nơi thờ Khổng Tử mà còn là Quốc Tử Giám – nơi đào tạo hiền tài của quốc gia.

Vậy mà kể từ khi Gia Long lên ngôi ở Phú Xuân, Quốc Tử Giám bị dời đi, lòng sĩ phu Bắc Hà hẳn vô cùng thất vọng, chán chường. Lại kể thêm vụ Ðặng Trần Thường bức hại các danh Nho như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan ở Văn Miếu năm 1803. Ðặng Trần Thường thực bụng muốn trả thù bạn cũ là Ngô Thì Nhậm muốn ép chết ông. Biết chuyện này, Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành không đồng tình, căn cứ chiếu chỉ của vua Gia Long ghi rõ ngụy quan ra thú được miễn tội, nhờ đó mà chỉ bị phạt roi. Sau trận đòn roi vọt đó, phần vì bị đánh đau, phần vì uất ức, không lâu sau đó, Ngô Thì Nhậm ốm chết. Vụ án Văn Miếu năm Quý Hợi này và cái chết bi thảm của danh Nho họ Ngô khiến cho giới sĩ phu Bắc Hà căm giận và bất mãn.

Việc cho xây Khuê Văn Các của Tổng trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành cũng như thực hiện công cuộc đại trùng tu Văn Miếu những năm đầu thời Nguyễn có ý nghĩa an lòng giới trí thức Bắc Hà.

Ký họa Khuê Văn Các của Nguyễn Ngọc Tuấn, sinh viên Đại học Mở

Khuê Văn Các nhìn từ mỹ học Lão trang

Khuê Văn Các giờ đây đã là hình ảnh quá đỗi thân thuộc với người dân Thủ đô. So với những hạng mục khác ở Văn Miếu như Văn Miếu Môn, tòa đại bái và thượng điện trong khu Ðại Thành thì Khuê Văn Các vừa nhỏ vừa đậm chất vô vi. Khuê Văn Các, tức Gác Khuê văn, là một lầu vuông có 8 mái. Gác dựng trên một nền vuông cao được lát gạch Bát Tràng. Kiểu dáng kiến trúc khá độc đáo và thanh thoát. Tầng dưới không xây tường, chỉ có 4 trụ gạch, 4 bề trống không. Tầng trên là kiến trúc gỗ, trừ phần mái lợp bằng ngói thường và những phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu vữa tam hợp.

Sàn gỗ tầng trên của Khuê Văn Các có chừa 2 khoảng trống để bắc thang lên gác. Bốn cạnh sàn làm lan can con tiện cũng bằng gỗ. Cả bốn mặt tường bịt ván gỗ, mỗi mặt đều trổ một cửa tròn, có những thanh gỗ chống tỏa ra 4 phía. Cửa tròn và những thanh gỗ chống tượng trưng cho sao Khu