Bệnh khô vằn hại lúa (Rhizoctonia solani Kuhn)

Bệnh khô vằn được phát hiện ở Nhật Bản (Miyaka, 1910 và Sawada, 1912) và ở một số nướckhác (Reinking 1918; Palo, 1926). Địa bàn phân bố của bệnh khá rộng ở tất cả các nước trồng lúa vùng châu á và các châu lục khác. Cây lúa có thể bị giảm năng xuất 20-25% khi bệnh phát triển lên đến đòng (Hori, 1969).

Trong các bệnh nấm hại lúa hiện nay ở nước ta bệnh khô vằn được xếp vào bệnh nghiêm trọng thứ hai sau bệnh đạo ôn và là loại bệnh gây hại chủ yếu trên lúa hè thu và lúa mùa đồng thời hại phổ biến trên một số giống ngô mới.

Triệu chứng

Bệnh khô vằn gây hại chủ yếu ở một số bộ phận của cây như bẹ lá, phiến lá và cổ bông. Các bẹ lá sát mặt nước hoặc bẹ lá già ở dưới gốc thường là nơi phát sinh bệnh đầu tiên.

Vết bệnh ở bẹ lá lúc đầu là vết đốm hình bầu dục màu lục tối hoặc xám nhạt, sau lan rộng ra thành dạng vết vằn da hổ, dạng đám mây. Khi bệnh nặng, cả bẹ và phần lá phía trên bị chết lụi (hình 11).

Vết bệnh ở lá tương tự như ở bẹ lá, thường vết bệnh lan rộng ra rất nhanh chiếm hết cả bề rồng phiến lá tạo ra từng mảng vân mây hoặc dạng vết vằn da hổ. Các lá già ở dưới hoặc lá sát mặt nước là nơi bệnh phát sinh trước sau đó lan lên các lá ở trên.

Vết bệnh ở cổ bông thường là vết kéo dài bao quanh cổ bông, hai đầu vết bệnh có màu xám loang ra, phần giữa vết bệnh màu lục sẫm co tóp lại.

Trên vết bệnh ở các vị trí gây hại đều xuất hiện hạch nấm màu nâu, hình tròn dẹt hoặc hình bầu dục nằm rải rác hoặc thành từng đám nhỏ trên vết bệnh. Hạch nấm rất dễ dàng rơi ra khỏi vết bệnh và nổi trên mặt nước ruộng.

Nguyên nhân gây bệnh

Ở Nhật Bản trong nhiều năm trước đây nấm gây bệnh được xác định là Hypochnus sasakii Shirai (S.H.Ou, 1972). Nhiều năm sau, nấm được đặt tên Rhizoctonia solani là giai đoạn vô tính của nấm Pellicularia sasakii Shirai=Corticium sasakii= Thanatephorus cucumericus.

Nấm sinh trưởng thích hợp ở nhiệt độ 28-320C. Nấm ngừng sinh trưởng ở dưới 100C và trên 380C. Hạch nấm nhiều ở nhiệt độ 30-320C. Khi nhiệt độ quá thấp (<120C) và quá cao (>400C) nấm không hình thành hạch. Nấm là loại bán ký sinh thuộc nhóm AG1 type 2 hại trên lúa nhưng cũng có tính chuyên hoá rộng, phạm vi ký chủ bao gồm trên 180 loài cây trồng khác nhau như lúa, đại mạch, đậu tương, ngô, mía, đậu đỗ, dâu, gai…. thuộc các nhóm liên hợp AG khác nhau.

Đặc điểm phát sinh phát triển

Bệnh khô vằn phát sinh mạnh trong điều kiện nhiệt độ cao và độ ẩm cao. Nhiệt độ khoảng 24-320C và ẩm độ bão hoà hoặc lượng mưa cao thì bệnh phát sinh phát triển mạnh, tốc độ lây lan nhanh. Bệnh thường phát sinh trước tiên ở các bẹ và lá già sát mặt nước hoặc ở dưới gốc. Tốc độ lây lan lên các lá phía trên phụ thuộc rất nhiều và thời tiết mưa nhiều, lượng nước trên đồng ruộng quá cao, đặc biệt ở các ruộng nhiều nước, cấy quá dày.

Sự phát triển của bệnh khô vằn ở thời kỳ đầu từ cây mạ đến đẻ nhánh có mức độ bệnh ít. Giai đọn đòng trỗ đến chín sáp là thời kỳ nhiễm bệnh nặng. Ở miền Bắc nước ta bệnh khô vằn gây hại trong vụ mùa lớn hơn ở vụ đông xuân.

Sự phát sinh phát triển của bệnh có liên quan nhiều tới chế độ nước trên đồng ruộng và chế độ phân bón. Bón phân đạm nhiều, bón đạm muộn thúc đòng bệnh sẽ phát sinh phát triển mạnh hơn. Bón nhiều lần cũng làm cho mức độ bị bệnh cao. Bón Kali có tác dụng là giảm mức độ nhiễm bệnh của cây.

Nguòn bệnh chủ yếu là hạch nấm tồn tại ở trên đất ruộng và sợi nầm ở gốc rạ và lá bị bệnh còn sót lại sau thu hoạch. Hạch nấm có thể sống một thời gian dài sau thu hoạch lúa thậm chí trong điều kiện ngập nước ngắn hạn vẫn có tới 30% số hạch giữ được sức sống, nảy mầm thành sợi và xâm nhiễm gây bệnh cho vụ sau. Quá trình xâm nhiễm lặp lại thường xảy ra qua tiếp xúc giữa hạch và bẹ lá úa.

Chỉ số của đợt gây bệnh lần đầu có liên quan mật thiết với số lượng hạch tiếp xuác với cây, nhưng sự phát triển của bệnh sau khi tiếp xúc với ký chủ lại chịu ảnh hưởng lớn của nhiệt độ, ẩm độ và tính mẫn cảm của cây ký chủ.

Phản ứng của các giống đều nằm trong phạm vi từ nhiễm nặm đến tương đối chống chịu. Chưa có giống lúa nào thể hiện đặc tính chống bệnh cao (Hsieh, Wu, Shian, 1965). Giống lúa Indica chống chịu bệnh tốt hơn giống lúa Japonica (Shian, Lee và Kim, 1965).

Ở nước ta, hầu hết các giống lúa địa phương và giống nhập nội đều có mức độ nhiễm bệnh khô vằn từ trung bình đến nhiễm nặm. Một số ít các giống như KV10, IR9965, IR50, IR17494, OM80,…. có mức độ nhiễm bệnh nhẹ hơn so với các giống khác, lúa thuần, lúa lai,…

Biện pháp phòng trừ

Phòng trừ bệnh khô vằn chủ yếu là áp dụng các biện pháp tiêu diệt nguồn bệnh ở trong đất và quản lý kỹ thuật trồng trọt thâm canh thích hợp. Tiêu diệt nguồn bệnh ở trong đất tiến hành ngay sau khi thu hoạch, cày sâu để vùi hạch nấm, phối hợp với các biện pháp gieo cấy đúng thời vụ, đảm bảo mật độ hợp lý, bón phân đúng tỷ lệ tránh bón phân tập trung đạm đón đòng, có thể phối hợp thêm kali hoặc tro bếp để tăng cường tính chống chịu của cây. Hệ thống tưới tiêu chủ động và không để mức nước quá cao trong trường hợp bệnh đang lây lan mạnh. Ngoài ra có thể dùng một số loại thuốc hoá học như Validacin (Validanmycin A) (1 L/ha), Bonanza 100 DD (0,4 L/ha), Tilt 250 ND (0,3-0,5 l/ha), Anvil 5 SC (50-100g a.i./ha), Rovral 50 WP (0,1-0,2%), Monceren 25 WP (1kg/ha) để phối hợp với các biện pháp canh tác kỹ thuật phòng trừ bệnh. Sử dụng thuốc hoá học phòng trừ bệnh chỉ đưa lại hiệu quả khi bệnh mới phát sinh ở những bẹ lá già và thuốc hoá học phải được phun tiếp xúc với tầng là dưới của cây kết hợp với rút cạn nước trên đồng ruộng.

Biện pháp sinh học như sử dụng chế phẩm nấm Trichoderma để ức chế sự phát triển sợi nấm và hạch nấm khô vằn cũng có tác dụng phòng trừ bệnh, đảm bảo an toàn môi trường.

Xem cách sử dụng phân bón cho lúa: http://tiennong.vn/b4/quy-trinh-dinh-duong-cho-cay-lua.aspx