Bệnh cườm nước (Glaucoma): Kẻ đánh cắp thị lực âm thầm

Bệnh Glaucoma có thể gây mất thị lực chậm và âm thầm trong nhiều năm nếu không được điều trị. Do đó, việc phát hiện bệnh sớm là điều vô cùng quan trọng. Tất cả những người có nguy cơ cao mắc bệnh tăng nhãn áp nên khám mắt toàn diện định kỳ 1 đến 2 năm một lần.

Bệnh Glaucoma là gì?

Bệnh Glaucoma là một nhóm các bệnh về mắt được đặc trưng bởi tổn thương dây thần kinh thị giác tiến triển (thường gặp, nhưng không phải luôn luôn, liên quan đến tăng nhãn áp) có thể dẫn đến mất thị lực không thể phục hồi.

  • Tổn thương dây thần kinh thị giác có thể xảy ra khi áp lực trong mắt tăng lên.
  • Thông thường, sự mất thị lực xảy ra rất chậm và có thể không được chú ý trong một thời gian dài.
  • Những người có nguy cơ nên khám mắt tổng quát, bao gồm đo nhãn áp và kiểm tra thị lực, thị trường.
  • Glaucoma cần được điều trị, theo dõi suốt đời, thường bằng thuốc nhỏ mắt nhưng đôi khi phải phẫu thuật.

Khoảng 64 triệu người trên thế giới bị bệnh Glaucoma. Bệnh là nguyên nhân gây mù phổ biến thứ hai trên toàn thế giới. Chỉ một nửa trong số người bị bệnh biết họ mắc bệnh. Bệnh Glaucoma có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng phổ biến hơn gấp 6 lần ở những người trên 60 tuổi. (1)

Những ai dễ bị mắc bệnh Glaucoma

Thống kê cho thấy, những đối tượng sau đây đối diện với nguy cơ mắc bệnh cườm nước, bao gồm:

  • Người trên 40 tuổi
  • Các thành viên trong gia đình mắc (hoặc đã) mắc bệnh
  • Cận thị (trong bệnh Glaucoma góc mở) hoặc viễn thị (trong bệnh Glaucoma góc đóng)
  • Người mắc bệnh tiểu đường
  • Người bị huyết áp cao
  • Người sử dụng corticosteroid lâu dài
  • Chấn thương mắt trước đây hoặc phẫu thuật

Nguyên nhân gây bệnh

Bệnh Glaucoma xảy ra khi sự mất cân bằng trong sản xuất và thoát dịch trong mắt (thủy dịch) làm tăng nhãn áp đến mức không tốt cho mắt. Bình thường, chất lỏng nuôi dưỡng mắt, được sản xuất bởi cơ thể mi phía sau mống mắt (trong hậu phòng) và đi qua đồng tử đến phía trước của mắt (tiền phòng), nơi nó thoát ra các ống dẫn lưu giữa mống mắt và giác mạc (góc tiền phòng). Sự cân bằng giữa sản xuất và thoát thủy dịch giữ cho thủy dịch chảy tự do và ngăn chặn áp lực trong mắt tăng cao.

Trong bệnh Glaucoma, các kênh thoát nước bị tắc nghẽn hoặc bít tắc. Thủy dịch không thể thoát khỏi mắt mặc dù thủy dịch mới đang được sản xuất trong hậu phòng, gây áp lực trong mắt tăng lên. Khi áp lực trở nên cao hơn mức mà dây thần kinh thị giác có thể chịu đựng, thì dây thần kinh thị giác sẽ bị tổn thương. Tổn thương này được gọi là bệnh Glaucoma.

Đôi khi nhãn áp tăng trong phạm vi bình thường nhưng vẫn quá cao đối với thần kinh thị giác có thể chịu đựng được (được gọi là bệnh Glaucoma nhãn áp thấp hay Glaucoma nhãn áp bình thường).

Ở hầu hết trường hợp, nguyên nhân của bệnh Glaucoma không tìm được, gọi là Glaucoma nguyên phát. Khi tìm ra nguyên nhân của bệnh, gọi là bệnh Glaucoma thứ phát. Nguyên nhân của bệnh Glaucoma thứ phát bao gồm nhiễm trùng, viêm, khối u, đục thủy tinh thể lớn, phẫu thuật đục thủy tinh thể, thuốc hoặc các bệnh lý khác. Những nguyên nhân này khiến thủy dịch không thể thoát ra, dẫn đến tăng nhãn áp và tổn thương dây thần kinh thị giác.

Phân loại bệnh Glaucoma

Bệnh Glaucoma được chia thành hai loại: Glaucoma góc mở và Glaucoma góc đóng.

Glaucoma góc mở

So với Glaucoma góc đóng thì bệnh Glaucoma góc mở phổ biến hơn. Trong bệnh Glaucoma góc mở, các ống dẫn trong vùng bè dần dần bị tắc nghẽn với các cặn nhỏ li ti trong nhiều tháng hoặc nhiều năm, dù góc tiền phòng vẫn mở nhưng sự thoát thủy dịch vẫn không đầy đủ. Áp lực trong mắt tăng chậm vì thủy dịch được sản xuất với tốc độ bình thường nhưng thoát chậm. (2)

Glaucoma góc đóng

Trong bệnh Glaucoma góc đóng các ống dẫn vùng bè bị tắc hoặc bị che do góc giữa mống mắt và giác mạc quá hẹp. Sự tắc nghẽn có thể xảy ra đột ngột (được gọi là Glaucoma góc đóng cấp), áp lực trong mắt sẽ tăng lên nhanh chóng hoặc từ từ (được gọi là Glaucoma góc đóng mãn tính), áp lực trong mắt tăng chậm như trong bệnh tăng nhãn áp góc mở.

Triệu chứng bệnh Glaucoma

Bệnh Glaucoma góc mở không gây đau. Cả hai mắt thường bị ảnh hưởng nhưng thường không như nhau. Triệu chứng chính là sự phát triển của các điểm mù, hoặc các mảng mất thị lực, trong nhiều tháng đến nhiều năm. Các điểm mù từ từ phát triển lớn hơn và hợp nhất với nhau. Thị lực ngoại vi thường bị mất trước. Bệnh nhân có thể bị trượt cầu thang, nhận thấy các phần của từ bị thiếu khi đọc hoặc gặp khó khăn khi lái xe. Suy giảm thị lực xảy ra dần dần nên thường không được chú ý cho đến khi giảm nhiều. Bởi vì tầm nhìn trung tâm thường bị mất cuối cùng, nên có hiện tượng “tầm nhìn đường hầm”: họ nhìn thẳng về phía trước một cách hoàn hảo nhưng lại bị mù ở tất cả các hướng khác. Nếu không được điều trị, cuối cùng thị lực đường hầm cũng bị mất và một người trở nên mù hoàn toàn.

Trong Glaucoma góc đóng cấp, nhãn áp tăng nhanh và người bệnh thường nhận thấy đau mắt và nhức đầu dữ dội, đỏ, mờ mắt, quầng sáng bảy sắc cầu vồng xung quanh đèn và mất thị lực đột ngột. Họ cũng có thể bị buồn nôn và nôn do phản ứng của việc tăng nhãn áp. Bệnh tăng nhãn áp góc đóng cấp tính được coi là một cấp cứu vì mọi người có thể mất thị lực nhanh chóng từ 2 đến 3 giờ sau khi xuất hiện các triệu chứng nếu tình trạng này không được điều trị.

  • Trong Glaucoma góc đóng mãn tính, nhãn áp tăng chậm và các triệu chứng thường bắt đầu như trong bệnh tăng nhãn áp góc mở. Một số người có thể bị đỏ mắt, khó chịu, mờ mắt hoặc giảm đau đầu khi ngủ. Nhãn áp có thể bình thường nhưng thường cao hơn ở mắt bị ảnh hưởng.

Những người đã từng bị Glaucoma góc mở hoặc Glaucoma góc đóng ở một mắt có khả năng phát triển bệnh này ở mắt còn lại.

Chẩn đoán

Việc chẩn đoán bệnh dựa trên:

  • Đo nhãn áp (bình thường từ 11 đến 21mmHg)
  • Đánh giá dây thần kinh thị giác
  • Test thị trường
  • Soi góc tiền phòng
  • Đo độ dày giác mạc

Chỉ đo nhãn áp là chưa đủ vì 1/3 số bệnh nhân có nhãn áp ở mức bình thường, và một số người có chỉ số nhãn áp cao mà không phải do Glaucoma. Vì vậy, bác sĩ cũng sử dụng kính soi đáy mắt và đôi khi các dụng cụ khác (chẳng hạn như chụp cắt lớp quang học) để tìm kiếm những thay đổi trong dây thần kinh thị giác cho thấy tổn thương do bệnh tăng nhãn áp gây ra.

Ngoài ra, kiểm tra thị trường cho phép bác sĩ phát hiện các điểm mù, bằng một máy xác định khả năng nhìn thấy các chấm sáng nhỏ trong tất cả các khu vực của trường thị giác. (3)

Soi góc tiền phòng cho phép bác sĩ xác định xem bệnh tăng nhãn áp thuộc loại góc mở hay góc đóng.

Các bác sĩ cũng đo độ dày của giác mạc. Nếu giác mạc mỏng, bệnh Glaucoma có nhiều khả năng phát triển. Tuy nhiên, giác mạc mỏng không có nghĩa là bị Glaucoma.

Điều trị bệnh Glaucoma

Mất thị lực vì Glaucoma là vĩnh viễn. Nhưng nếu Glaucoma được phát hiện, điều trị thích hợp có thể ngăn ngừa mất thị lực thêm. Vì vậy, mục tiêu của điều trị Glaucoma là ngăn ngừa tổn thương dây thần kinh thị giác và mất thị lực bằng cách giảm nhãn áp.

Điều trị Glaucoma là suốt đời. Giảm nhãn áp bằng cách tăng thoát thủy dịch ra khỏi nhãn cầu hoặc giảm sản xuất bên trong nhãn cầu. Một số người bị nhãn áp cao không có dấu hiệu tổn thương dây thần kinh thị giác (được gọi là “Nghi ngờ Glaucoma”) có thể được theo dõi chặt chẽ mà không cần điều trị.

Sử dụng thuốc thường ở dạng thuốc nhỏ mắt và phẫu thuật là những phương pháp điều trị chính cho bệnh. Loại và mức độ nghiêm trọng của bệnh xác định phương pháp điều trị thích hợp.

Hầu hết những người bị Glaucoma góc mở đều đáp ứng tốt với các loại thuốc được sử dụng để điều trị.

Những loại thuốc này cũng được sử dụng cho những người bị bệnh tăng nhãn áp góc đóng, nhưng phẫu thuật là phương pháp điều trị chính.

Thuốc

Thuốc nhỏ mắt có chứa chất chẹn beta (chẳng hạn như timolol), các hợp chất giống như prostaglandin, chất chủ vận alpha-adrenergic, hoặc chất ức chế anhydrase carbonic thường được sử dụng để điều trị bệnh tăng nhãn áp. Thuốc cholinergic (chẳng hạn như pilocarpine) đã được sử dụng trong quá khứ nhưng không còn được sử dụng phổ biến nữa.

Thuốc nhỏ mắt thường an toàn nhưng chúng có thể gây ra nhiều tác dụng phụ. Bệnh nhân cần sử dụng chúng trong suốt đời còn lại, và cần phải đi khám định kỳ để theo dõi nhãn áp, thần kinh thị giác và thị trường.

Glaucoma góc đóng cấp là một cấp cứu, vì vậy bác sĩ có thể sử dụng kết hợp các loại thuốc rất mạnh và tác dụng nhanh làm hạ nhãn áp nhanh chóng. Bệnh nhân nhận nhiều loại thuốc cùng một lúc, bắt đầu bằng thuốc nhỏ mắt (chẳng hạn như timolol, brimonidine và pilocarpine). Sau đó, các bác sĩ sẽ cho uống thuốc acetazolamide và thuốc lợi tiểu như glycerin hoặc isosorbide (bằng đường uống) hoặc mannitol (bằng đường tĩnh mạch) nếu nhãn áp quá cao khi đã dùng thuốc nhỏ mà không hiệu quả. Điều trị laser được thực hiện cho cả hai mắt càng sớm càng tốt. Cả hai mắt đều được điều trị vì mắt lành có khả năng bị ảnh hưởng sau này.

Phẫu thuật

Cần phẫu thuật cho những người có nhãn áp quá cao, không được kiểm soát hiệu quả bằng thuốc nhỏ mắt, người không thể dùng thuốc nhỏ mắt, những người bị các tác dụng phụ không thể dung nạp được từ thuốc nhỏ mắt, hoặc những người đã bị tổn thương thị trường nghiêm trọng ngay khi phát hiện bệnh. (4)

Tạo hình vùng bè bằng laser ở bệnh nhân Glaucoma góc mở hoặc để tạo lỗ rìa mống mắt (cắt mống chu biên bằng laser) ở những người bị bệnh tăng nhãn áp góc đóng cấp tính hoặc mãn tính. Kỹ thuật laser được thực hiện tại bệnh viện hoặc phòng khám. Bệnh nhân có thể về nhà ngay sau thủ thuật.

Biến chứng phổ biến nhất của kỹ thuật laser là làm tăng nhãn áp tạm thời, được điều trị bằng thuốc nhỏ mắt hạ nhãn áp. Hiếm khi tia laser có thể làm bỏng giác mạc, nhưng những vết bỏng này thường nhanh chóng lành lại.

Phẫu thuật cắt bè củng mạc: thường được thực hiện trong bệnh viện, có thể về nhà ngay trong ngày.

Việc điều trị bệnh tăng nhãn áp do các rối loạn khác gây ra tùy thuộc vào nguyên nhân.

Đối với nhiễm trùng hoặc viêm, thuốc nhỏ mắt kháng sinh, kháng vi-rút hoặc corticosteroid có thể giúp chữa khỏi.

Cần điều trị khối u làm tắc nghẽn dẫn lưu thủy dịch. Đục thủy tinh thể quá lớn sẽ làm tăng nhãn áp, loại bỏ đục thủy tinh thể có thể giúp ngăn ngừa bệnh tăng nhãn áp thứ phát nhưng đôi khi làm tăng nhãn áp. Nhãn áp cao do phẫu thuật đục thủy tinh thể được điều trị bằng thuốc nhỏ mắt.