Không gian nội thất truyền thống nhà ở dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ – Tạp chí Kiến Trúc

Trải qua hàng trăm năm, ngôi nhà truyền thống của người Việt đã thích ứng với môi trường thiên nhiên và điều kiện khí hậu – Không gian nội thất của ngôi nhà trở thành nơi thể hiện thế giới quan của con người, chuyển tải những công năng cả về vật lý lẫn tình cảm, hình thành nên bản sắc riêng biệt cho nhà ở từng khu vực. Tuy vậy, việc khai thác và vận dụng giá trị truyền thống đến nay vẫn còn nhiều khó khăn, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của người thiết kế. Trong khi đó, xã hội ngày một thay đổi, không gian sống truyền thống dần bị lai tạp, hòa trộn nhiều hình thức, những di sản văn hóa, kiến trúc, mỹ thuật của cha ông ngày một mất mát, chưa được đánh giá xứng tầm.

Mặc dù chưa có điều kiện đầy đủ để đánh giá chung về nội thất nhà ở truyền thống, qua bài viết này, chúng tôi muốn gom nhặt những hiểu biết sơ lược qua quá trình điền dã thực tế; nhằm quan sát, nhìn nhận một số đặc trưng về nội thất truyền thống trong nhà ở dân gian người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ (ĐBBB). Qua đó, làm rõ bản sắc văn hóa dân tộc trong nội thất, trang trí mỹ thuật, hướng đến bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị truyền thống một cách hiệu quả.

Tổ chức không gian nội thất

Việc bố trí không gian nội thất trong nhà ở người Việt vùng ĐBBB thể hiện khá rõ “tính cộng đồng cùng tồn tại với tính tôn ti đẳng cấp” [10], cùng với những ảnh hưởng bởi quan niệm về giới. Không gian nhà chính thường chia theo số lẻ, với gian ở giữa là tâm điểm, chia không gian nhà thành các cặp đối xứng kể cả cấu trúc kiến trúc lẫn nội thất, thông qua một trục chính mang tính ước lệ. Sự đăng đối chỉ mang tính tương đối, tạo cảm giác trang trọng, cân bằng và hài hòa cho không gian sống.

Không gian thờ cúng tổ tiên trong nhà luôn là không gian quan trọng nhất, được bố trí sắp xếp trên dưới đăng đối nghiêm cẩn. Ban thờ thường cũng được đặt ở gian giữa, có thể kết hợp làm nơi tiếp khách. Các gian bên là chỗ ngồi chơi, tiếp khách, nơi nghỉ của đàn ông. Hai gian đầu hồi được ngăn kín đáo bằng hệ vách cửa, là nơi ở của phụ nữ, cũng là nơi cất giữ lương thực, những đồ có giá trị không dùng đến hàng ngày. Sang thế kỷ 20, gian đầu hồi trở thành không gian riêng kín đáo của các cặp vợ chồng hoặc người nữ trong nhà.

Các không gian chung trong nhà khá linh hoạt, mang tính ước lệ, có thể kết hợp nhiều hoạt động trong đời sống gia đình, mà việc giao tiếp cộng đồng là quan trọng nhất. Các không gian hở – không gian nửa kín nửa hở chuyển tiếp liên hoàn: Sân và hiên nhà phân chia cao độ bởi hệ bậc cấp, hiên ngăn cách với không gian trong nhà bởi hệ cửa ngưỡng; không gian tâm linh ngăn chia với không gian bên ngoài bởi ban thờ, hoành phi câu đối cửa võng,…

Vật liệu giản dị, tự nhiên và bản địa

Vật liệu sử dụng trong nhà ở dân gian ĐBBB có xu hướng giản dị, gần gũi với tự nhiên và khai thác tại chỗ, mang tính bản địa cao. Các chất liệu này phối hợp với nhau tạo nên tinh thần riêng của không gian nội thất truyền thống.

Tre gỗ luôn là vật liệu cơ bản nhất, vừa tham gia vào cấu trúc của ngôi nhà, vừa là thành phần quan trọng cấu thành nên không gian nội thất. Trong đó, “Cây tre là nguyên liệu gần gũi duy nhất trong tất cả mọi việc chế tác đồ dùng và đồ sản xuất” [7], thậm chí, PGS. TS. Nguyễn Thừa Hỷ còn nhận định: “Thế giới đồ tre bao trùm toàn bộ căn nhà của người nông dân”. Đồ gỗ không xuất hiện quá nhiều, bề mặt để mộc trơn hoặc trang trí thủ công, đem lại cảm giác ấm áp khi tiếp xúc. Các đồ đan lát từ thảo mộc, dệt may nhuộm thủ công góp phần giúp không gian nội thất mềm mại, đa dạng và hữu hiệu hơn. Đồ gốm sứ, đất nung xuất hiện trong đời sống thường ngày, trên không gian thờ tự, hay trong không gian bày biện trang trọng trở thành điểm nhấn nội thất tinh tế.

Hoa văn họa tiết mang nhiều tầng ý nghĩa

Không chỉ trong chốn cung đình hay nơi linh thiêng, ngay trong nhà ở dân gian, người Việt cũng sử dụng các motif trang trí trên kiến trúc hay đồ nội thất, gửi gắm nhiều tầng bậc ý nghĩa về nhân sinh quan; “…Chúng được hình thành bởi tư duy nông nghiệp, để phản ánh về một ý niệm truyền đời là cầu no đủ và mọi điều hạnh phúc…” [3], là sự kết tinh “muôn đời muôn thuở” của dân tộc.

Tùy theo điều kiện kinh tế – lịch sử, vị thế xã hội của chủ nhà mà những trang trí đơn giản hay phức tạp, tập trung nhiều nhất ở khu vực thờ tự và tiếp khách. Nhà thường dân chỉ sơn vẽ hình kỷ hà, hình tượng biến hóa của tứ linh, hoa lá,… hoặc sáng tạo trang trí trên vật liệu tạo tác. Nhà khá giả sang trọng cầu kỳ tinh tế hơn trong tạo hình, từ đề tài và các dạng đồ trang trí đến kỹ thuật chạm khắc, cẩn khảm, sơn vẽ. Các motif trang trí gia tăng thêm ý nghĩa ở các chi tiết đường nét tạo hình, sự cách điệu hình thể, thể hiện ý tưởng thẩm mỹ của chủ nhà, mang lại giá trị kết nối giữa con người, văn hóa và tín ngưỡng.

Sử dụng màu sắc tối giản, trung tính

Nội thất nhà ở truyền thống vùng ĐBBB thường sử dụng màu sắc tối giản, hạn chế dùng các màu sắc nóng và rực rỡ, ưu tiên những gam trầm tối, trung tính, nhưng vẫn rất ấm cúng. Những màu sắc này có thể là màu gốc của vật liệu như gỗ, nền đất hay gạch nung,… hoặc điểm xuyết bằng đồ đạc – trang trí tạo nên bởi nghệ thuật tạo màu: Mực nho, tơ vải nhuộm, sơn thếp, khảm trai, vôi ve, gốm sứ,… từ nguyên liệu tự nhiên. Tất cả tạo nên một tổng thể hài hòa, đem đến một không gian gần gũi với thiên nhiên. Những gam màu nổi bật tập trung ở khu vực giữa nhà, nơi linh thiêng và trang trọng nhất. Càng xa trung tâm nhà, màu sắc càng giản đơn. Đặc biệt, không gian nội thất truyền thống luôn có đặc trưng bởi “màu thời gian”, thể hiện bằng những hoen ố xen lẫn những mảng màu gốc bị biến đổi qua thời gian mưa nắng, lâu dần trở nên quen thuộc, gần gũi, tạo thành ký ức khó quên.

Sử dụng ánh sáng tự nhiên tinh tế

Do đặc điểm lối sống, phong tục tập quán, cũng như kỹ nghệ, trong nội thất ngôi nhà ít có ánh sáng chiếu thẳng, càng lên cao trên nóc càng tối; tuy vậy, vẫn tạo hiệu quả ánh sáng chính xác đến mức tinh tế. Ánh sáng tự nhiên đa phần lấy từ hệ thống cửa bức bàn phía trước, cửa sổ – cửa thông gió nhỏ ở gian bên và gian hồi. Từ giữa thế kỷ 20, xã hội và kỹ thuật phát triển, các ngôi nhà nâng cao mái và mở rộng lòng nhà, sử dụng hệ thống cửa lớn, giúp chiếu sáng tốt hơn. Buổi tối, nhà ở được thắp sáng bằng nến hoặc đèn dầu chay, sau có dầu hỏa, chỉ đủ sáng mờ trong khoảng gần xung quanh, tạo nên những tone màu ấm áp trong đêm.

Nhìn chung, không gian nhà ở truyền thống thường sử dụng ánh sáng tự nhiên, chiếu sáng kín đáo, nhẹ nhàng; ưu tiên chiếu sáng không gian nhà phía trước, nơi tiếp khách hoặc diễn ra các hoạt động đông người của gia đình.

Đồ đạc nội thất trong nhà ở truyền thống không nhiều, mang tính thiết yếu, đáp ứng đủ nhu cầu, không thừa thãi. Hình thức và kích thước của đồ đạc phù hợp với tỉ lệ nhân trắc học người Việt. Đó thường là các sản phẩm từ những nghề thủ công đa dạng ở miền Bắc, được đúc rút kinh nghiệm và trao truyền qua nhiều đời.

Trong ngôi nhà Việt, các sản phẩm đan lát từ vật liệu tự nhiên là các vật dụng sinh hoạt phổ biến, có vai trò quan trọng trong đời sống vật chất, cho đến tận ngày nay. Đây là một trong những nghề thủ công phổ biến và lâu đời nhất, đặc biệt quan trọng ở các tỉnh dọc sông Hồng, trở thành cả “một nghệ thuật có tính chuyên nghiệp” [7]. Đồ gỗ ít phổ biến hơn, xuất hiện ở những nhà khá giả, thường được lưu giữ qua nhiều đời. Trong dân gian, đồ gỗ thường thô mộc, hình thức đơn giản, chắc chắn. Trong nhà giàu có, đồ gỗ gia dụng khá đa dạng, được tạo tác trình độ cao, tinh nhã, với những tráp gỗ, khay trà, sập gụ tủ chè… được chạm khảm trai ốc, xà cừ với các đề tài trong văn học, chim muông hoa lá, tứ thời bát tiết… Đồ gốm cũng xuất hiện nhiều, bên cạnh đồ gia dụng như bát đĩa, bình vò, chum vại… và gốm thờ cúng như đèn, lư hương, lộc bình, còn có điêu khắc phù điêu và tượng tròn gốm mang ý nghĩa biểu tượng với kỹ thuật tinh xảo, chế tác cầu kỳ. Đồ kim khí ít xuất hiện, chủ yếu trong các nông cụ nhỏ. Ở các nhà khá giả, đồ đồng thường được dùng trên ban thờ, trong nhà bếp hoặc trong các chi tiết trang trí nhỏ.

Thay lời kết

Có thể thấy rằng, không gian nhà ở dân gian người Việt ở ĐBBB, dưới tác động của các yếu tố tự nhiên, kinh tế – xã hội cùng những giá trị lịch sử – văn hóa đã tạo nên những nét đặc trưng riêng có. Đó là việc tổ chức không gian xuyên suốt chiều dài lịch sử, luôn đề cao tính cộng đồng và truyền thống. Ngôi nhà cùng không gian sống thể hiện sự hài hòa về vật chất và thẩm mỹ với điều kiện tự nhiên, là sự hòa hợp hoàn toàn giữa con người với thiên nhiên, biểu hiện trong cách thức sử dụng đồ nội thất, từ vật liệu, trang trí đến màu sắc ánh sáng. Những yếu tố này luôn có giá trị lớn trong đời sống người Việt mọi thời kỳ, có thể được đưa vào không gian đương đại theo những quy luật và thể thức khác nhau, với sự linh hoạt về nguyên tắc và giải pháp, để gợi mở vẻ đẹp và tính quen thuộc của không gian truyền thống. Nói cách khác, người thiết kế cần sáng tạo trên cơ sở hiểu rõ về truyền thống; kế thừa chọn lọc, chủ động và thích ứng với điều kiện văn hóa xã hội – công nghệ kỹ thuật hiện nay, giúp ngôi nhà mang tinh thần, giá trị truyền thống, vừa đảm bảo tiện nghi, phù hợp thời đại.

Trong thời đại toàn cầu hóa, nhu cầu tìm về, thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc đang là một xu hướng ngày một mạnh mẽ trong đời sống con người. Vì vậy, cần có thêm nhiều nghiên cứu mang tính hệ thống và liên ngành về không gian nhà ở truyền thống, làm nền tảng vững chắc cho thiết kế đương đại. Chỉ khi người Việt hiểu và nắm rõ về văn hóa cổ truyền, về kiến trúc nội thất truyền thống, xuất phát từ nhu cầu thiết yếu bên trong, biến chuyển nó thích nghi với thực tiễn đương đại, thì những gì chúng ta đạt được mới “bền vững”.

ThS.KTS Trần Thị Thanh Thủy Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội (Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 09-2021)

Tài liệu tham khảo 1. Chu Quang Trứ (1996), Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam, NXB Mỹ thuật; 2. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục; 3. Trần Lâm Biền (2001), Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt, Tạp chí VHNT & NXB VHDT; 4. Nhất Thanh (2001), Đất lề quê thói, NXB Văn hóa Thông tin; 5. Nhiều tác giả (2006), Nghệ thuật Việt Nam, NXB Kim Đồng; 6. Bertrand De Hartingh (2007), Vietnam style, NXB Periplus Editions (HK); 7. Phan Cẩm Thượng (2011), Văn minh vật chất của người Việt, NXB Tri thức; 8. Pierre Gourou (2015), Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ, NXB Trẻ; 9. Võ Thị Thu Thủy (2015), Sổ tay tham khảo phong cách Việt trong thiết kế nội thất, NXB Xây dựng; 10. Nguyễn Thừa Hỷ (2015), Văn hóa Việt Nam truyền thống – Một góc nhìn, NXB Thông tin và Truyền thông.