Kiến trúc Đình làng Việt – Tạp chí Kiến Trúc

Hình ảnh Cây đa – Bến nước – Sân Đình đã ăn sâu vào tâm thức của người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ từ hàng ngàn năm, một không gian bình dị gắn liền với đời sống sinh hoạt của cư dân miền nông nghiệp lúa nước. Không gian và Kiến trúc Đình làng là minh chứng cho tài nghệ xây dựng của ông cha ta, từ việc chọn địa điểm, quy hoạch hòa lẫn với thiên nhiên, dưới bóng mát rặng cây, soi bóng nước bên hồ, tận dụng hết ưu việt tự nhiên cho đến hình thức kiến trúc, tỉ lệ, vật liệu, màu sắc phù hợp với thẩm mỹ, điều kiện xây dựng địa phương.

Có thể nói Đình làng là công trình kiến trúc cổ Việt Nam bảo tồn được những đặc điểm nghệ thuật kiến trúc độc đáo, tính dân tộc đậm đà sắc thái dân gian.

Chức năng

Đình làng là trung tâm sinh hoạt cộng đồng của làng, sau đó thêm vào chức năng thờ thành hoàng. Về sau Đình còn là trụ sở hành chính của làng xã: Phân chia công điền thổ, giải quyết tranh chấp, thu thuế, ăn khao…

Lược sử

Theo từ điển Hán Việt của Thiều Chửu, Trần Văn Chánh, Nguyễn Quốc Hùng: Đình(亭 ) là cơ quan hành chính cấp cơ sở đời Tần, Hán, nhà Hán chia đất cứ mười dặm (khoảng 5km) là một đình, mười đình là một làng, nên người coi việc làng là đình trưởng 亭長, tức lí trưởng bây giờ.

Từ Đình này thuộc bộ Đầu, để phân biệt với từ Đình thuộc bộ khác, tuy đồng âm nhưng khác nghĩa. Từ Đình này ghép 1 số từ khác như:

Quá nhai đình: Cái đình, bên đường làm nhà cho khách qua lại trọ .

Lương đình: Kiến trúc có mái nhưng không có tường chung quanh, thường cất ở vườn hoa hoặc bên đường, cho người ta ngắm cảnh hoặc nghỉ .

Vọng đình: Chòi canh gác dùng để quan sát tình hình quân địch.

Đình làng Việt: Là nơi sinh hoạt cộng đồng của 1 làng, vua quan khi ngang qua làng cũng nghỉ chân tại đây, sau đấy còn được treo các pháp lệnh vua ban thời Lê sơ, có thời điểm như thời Trần thêm chức năng thờ cúng Phật, dần dần nó phát triển thành 1 loại hình kiến trúc công cộng dân gian cho các hoạt động của làng xã vừa thờ cúng Thành hoàng.

Thế kỷ 16, thời Mạc đã gây dựng được nhiều Đình lớn như Đình Thụy Phiêu – Ba Vì, Tây Đằng- Ba Vì-Hà Tây, Lỗ Hạnh- Bắc Giang. Từ thời Lê trung Hưng thế kỷ 17, kiến trúc đình làng phát triển rầm rộ khắp các làng xã với sự đóng góp của quần chúng nhân dân và sáng tác tập thể. 1 số đình thời kỳ này như Đình Thổ tang- Vĩnh phúc, Đình Hương Canh – Vĩnh Phúc, Đình Hoàng Xá – Hà Tây, Thổ Hà , Phù Lão…

Thế kỷ 18 – thời Lê mạt việc xây dựng đình làng có giảm sút do hoàn cảnh xã hội nhưng vẫn xuất hiện những đình quy mô, trang trí tinh xảo như Đình Chu Quyến , đình Đình Bảng- Bắc Ninh, Nhân Lí- Hải Dương, Thạch Lỗi – Hải Dương.

Thế kỷ 19, dưới thời vua Gia Long, cũng xây dựng một số đình lớn như Tam Tảo- Hà Bắc, An Đông – Quảng Ninh… nhưng về kiến trúc và điêu khắc đã giảm sút đi nhiều. Dưới thời vua Minh mạng thì chuyển sang kết cấu xây vôi gạch, ít dùng gỗ, chỉ có ở miền núi dùng gỗ chủ yếu.

Bố cục tổng thế

Vị trí, Địa điểm:

Gắn liền với khu ở của dân làng, thuận đường nối với các ngõ, thôn, thế đất thoáng đãng, tuân theo nguyên tắc địa lý phong thủy, phía trước thoáng đãng nhìn ra sông nước, có hồ nước tự nhiên hoặc nhân tạo theo nguyên tắc “Tụ thủy”. Thường chọn hướng Nam, Đông Nam.

Bố cục và các thành phần kiến trúc:

Đình có thể là một công trình độc lập hay một quần thể kiến trúc cũng có khi nằm cạnh chùa thành một quần thể lớn. Các công trình được bố cục đối xứng qua trục chính chạy dài. Các công trình thành phần: Hồ nước, Nghi môn, Nhà Tiền tế, Đại Đình – hậu cung, 2 bên có thêm nhà hành lang hữu, tả vu đối xứng 2 bên. Ngoài ra phía trước Đình làng thường có nhiều cây xanh, sân rộng để có thể tập hợp đông người những ngày lễ hội.

Đại đình:

Là nơi hành lễ sinh hoạt công cộng, hành chính nên cần không gian và diện tích lớn, trang trọng, bề thế. Các Đại đình thường có 5,7 gian có trái hoặc không trái. Mái Đại đình có 2 dạng: Dạng có 4 mái và dạng có 2 mái, tường xây bịt 2 trái ( loại này niên đại muộn hơn). Những Đình có niên đại sớm thường không có tường hay vách gỗ bao quanh. Đại đình ban đầu có dạng chữ Nhất, về sau hậu cung phát triển lùi phía sau tạo thành hình chữ Đinh, Công. Có những ngôi đình có sàn gỗ, thường cách mặt đất khoảng 50-60 cm. Gian chính giữa thường không có sàn còn gọi là gian lòng thuyền. Gian này được coi là lối của Thánh hay Thành hoàng làng được thờ trong đình và nó cũng là nơi để thực hiện các nghi lễ thờ cúng. Sàn ở các gian đối xứng 2 bên, sàn có các mức cốt, cốt thấp nhất là dành cho các bô lão và chức sắc trong làng. Họ sẽ ngồi đối diện qua gian lòng thuyền. Đây điều rất bất ngờ theo cách nghĩ thông thường thì các cụ chức sắc và bô lão thường ngồi chiếu trên trong các bữa tiệc nhưng ở đây họ lại ở cốt sàn thấp nhất, những người khác sẽ ở phía sau. Điều này cho thấy rõ công năng hội họp của đình.

Hậu cung:

Là nơi thờ Thành hoàng làng, giữ các vật thiêng, không gian nhỏ nhưng kín đáo, trang nghiêm thường được đóng không cho mọi người vào. Ban đầu thường nằm gian chính giữa, phía sau từ cột Cái và cột quân của Đình. Sau này phát triển thành dạng chuôi vồ, lùi ra sau Đại đình tạo thành chữ Đinh hoặc nối với Đại đình bằng 1 nhà cầu gọi là ống muống tạo thành hình chữ Công. Thành hoàng thường là nhân thần có công với làng hay địa phương như Lí Bí, Triệu Quang Phục, Trần Hưng đạo hay nhân vật theo truyền thuyết như Thánh Tản viên, hoặc có khi là ông tổ dòng họ, nghề thủ công truyền thống.

Tiền tế ( phương đình):

Thường có kích thước và quy mô nhỏ hơn Đại đình, mặt bằng hình vuông và không có cửa vách bao quanh, có 2 tầng mái. Phải đến cuối thế kỷ 17 mới xuất hiện nhà Tiền tế và xuất hiện nhiều vào thế kỷ 19. Cùng với sân đình, các hành lang Tả vu, Hữu vu, … nhà Tiền tế là bộ phận nối tiếp giữa kiến trúc Đình và ngoại cảnh tổng quan, khoáng đạt rộng mở để dễ dàng tập hợp quần chúng đông đảo tiến hành rước lễ hoặc giải trí vui chơi.

Nhà tả vu, hữu vu:

Nhà hành lang bên trái và bên phải: Là không gian có mái che, không có tường bao xung quanh, nếu có cũng chỉ bao mặt bên, mặt chính để hở.

Kiến trúc, bộ khung kết cấu, tỉ lệ.

Kiến trúc & tên gọi các bộ phận

Nhìn từ phía ngoài mái đình có tỉ lệ đồ sộ, chiếm 2/3 chiều cao CT, 4 góc xòe rộng, uốn lượn nhẹ nhàng, đặt trên hệ cột to khỏe, vững chắc.

Bờ nóc hơi võng, có khi 2 đầu nhô cao vút ra ngoài như hình con thuyền lớn. Trên 2 đầu bờ nóc được đắp hình con Kìm Lạc long thủy quái, ở giữa bờ nóc hình lưỡng long chầu nguyệt (hình thức này sang thời Nguyễn mới thịnh hành), bờ chảy đắp các con xô Lân, phượng…

Bốn góc mái nhô cao với các đầu đao cong vút nhờ các tàu mái réo cong đan cài ở 4 góc tạo nên những nét duyên dáng nhưng không kém phần khỏe khoắn cho ngôi Đình.

Một điều rất thú vị theo các nhà nghiên cứu như TS.Nguyễn Hồng Kiên, PGS.TS Trần Lâm Biền thì trước thế kỷ 17 không có góc đao réo cong bằng kết cấu gỗ (4 góc mái cong có thể bằng hình thức khác), lúc này tàu mái chỉ là chiếc hoành cuối cùng. Vì ở các ngôi chùa hay đình có niên đại sớm, đầu bảy không có lỗ mộng của tàu mái.

Các cột đình thường để mộc, bào nhẵn, cũng có những đình làng cột Cái được sơn son thiếp vàng, trang trí rồng mây.

Kiến trúc, bộ khung kết cấu

Bộ khung kết cấu

Bộ khung kết cấu gỗ khớp nối bằng mộng cực kỳ linh hoạt, có thể tháo dỡ lắp ở vị trí mới. Tính đơn giản, thống nhất, tính điển hình và tính tiêu chuẩn thấy rõ trong bộ khung gỗ chịu lực của công trình.

Hệ kết cấu gỗ, liên kết bằng mộng: Cột, xà, kẻ, bảy, bộ vì kèo Chồng giường hay Giá chiêng, hoặc giá chiêng kết hợp chồng giường.

Là loại hình kiến trúc công cộng nên cần không gian lớn, Bộ Vì gồm 6 hàng cột lớn đứng thẳng trên các bệ đá bằng sức nặng của mái và các mối liên kết.

Khoảng cách các cột xác định theo số lượng khoảng hoành. Kiểu Thượng tam -hạ tứ (vì nóc trên cùng mỗi bên có 3 khoảng hoành,vì nách mỗi bên có 4 khoảng hoành ), Thượng tứ – hạ ngũ (vì nóc mỗi bên có 4 khoảng hoành, vì nách mỗi bên có 5 khoảng hoành), Thượng ngũ – hạ ngũ (vì nóc mỗi bên có 5 khoảng hoành, vì nách mỗi bên có 5 khoảng hoành).Vì nóc có hình tam giác cân đặt trên 2 cột cái, vì nách có hình tam giác vuông đặt trên cột cái và cột quân. Khoảng cách các hoành qui ước là a, thì chiều cao b = 2/3a, đường xiên c hay còn gọi là khoảng chảy.

Đề tài trang trí

Trang trí khéo léo và tinh tế, trang trí để làm đẹp các bộ phận cấu kiện chứ không trang trí thừa thãi, khéo léo lồng ghép yếu tố văn hóa, thiên nhiên, ước nguyện vào đề tài trang trí. Nơi tập trung các tác phẩm điêu khắc độc đáo, văn hóa dân gian. Đề tài thông thường là long, ly, quy, phượng (tứ linh) hay thông, mai, cúc, trúc (tứ quý), đặc biệt là hình ảnh về hoạt cảnh dân gian, những hình ảnh thân thuộc ở làng quê. Các chủ đề dân gian, sinh hoạt làng quê được thể hiện theo quan niệm tạo hình dân gian giàu tính tượng trưng và ước lệ. Không quan tâm đến tỷ lệ cơ thể cân đối, miễn sao truyền được cái “thần” của nhân vật. Nhưng tổng thể tác phẩm lại là sự hài hoà cân đối hợp lý về mặt bố cục, hình khối, đường nét.

“ Uống rượu”: Thể hiện một cuộc rượu với một tinh thần nho nhã. Đường nét mềm mại, hình khối nhẹ nhàng.

“Đánh Cờ” : Khéo tạo ra sự thay đổi giữa mảng nổi, mảng chìm giữa hình và nền, giữa đặc và rỗng một cách hợp lý tạo nên một bố cục thoáng nhưng rất chặc chẽ, rõ ràng. (Theo cuốn “Lịch Sử Mỹ Thuật Việt Nam” của Phạm thị Chỉnh).

Trong Đình làng Tây Đằng: Các bức chạm khắc mô tả sống động một quy trình khép kín cuộc sống của người Việt cổ, từ thủa sơ khai với hoạt động hái lượm, thuần hóa động vật hoang dã (hình tượng voi đi cày) đến cảnh đấu tranh chống giặc giã, sau đó đất nước thanh bình (hình ảnh người chồng ngồi chải tóc cho vợ dưới gốc cau), trai tráng luyện tập võ nghệ, nhân dân nô nức trong lễ hội đua thuyền đến cảnh cha mẹ, ông bà xum vầy, thầy đồ dạy học biểu tượng cho sự chăm lo tới thế hệ sau…

Lời kết: Đình Làng Việt thực sự là nơi lưu giữ tâm hồn người Việt và trí tuệ người Việt. Ngôi đình là một sự chuyển hóa và tái hiện lại trung thực thế giới quan của người nông dân Việt nam qua bao thế hệ. Đó là mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cấu trúc xã hội làng xã Việt cổ đến cách ứng xử với môi trường tự nhiên, tất cả những khái niệm “vô hình” được “phiên dịch” và “tái hiện” trong bộ khung gỗ chắc chắn mà linh hoạt, trong cấu trúc không gian thoáng mở mà tầng bậc, trong chủ đề trang trí mộc mạc mà tinh tế. Đình là một di sản phi vật thể và vật thể vô giá cần được lưu giữ và bảo tồn.

Xem thêm: Kiến trúc Art deco là gì?

ThS Vũ Thị Ngọc Anh Bộ môn Lý thuyết và Lịch sử kiến trúc, ĐHXD © Tạp chí kiến trúc

Tài liệu tham khảo

  1. Viện bảo tồn di tích, Kiến trúc Đình làng Việt qua tư liệu Viện Bảo tồn di tích (tập 1), NXB Văn hóa Dân tộc, 2017.
  2. Nguyễn Đình Toàn, Kiến trúc Việt Nam qua các triều đại, NXB Xây dựng, 2002
  3. Phạm Thị Chỉnh, Lịch Sử Mỹ Thuật Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, 2013
  4. PGS.TS Trịnh Cao Tưởng, Bài viết Bộ khung kết cấu gỗ kiến trúc cổ Việt Nam , Tập san Khảo Cổ Học số 2/1985.
  5. Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam – PGS.TS Trần Lâm Biền, Đình Làng Việt (Châu thổ Bắc Bộ), Nhà xuất bản Thế Giới,2014.