CHÚNG TA ĐANG BỊ LỪA VỀ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG ?
THỐNG KÊ
BỆNH ĐƯỜNG-HUYẾT THẤP DƯỚI 70mg/dL GÂY RA NHIỀU BỆNH NAN Y, UNG THƯ VÀ CHẾT NGƯỜI NHIỀU HƠN BỆNH ĐƯỜNG-HUYẾT CAO
PHẦN I :
HÃY TỈNH TÁO ĐỂ BIẾT TẠI SAO CHÚNG TA BỊ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG
A-TẠI SAO TRƯỚC NĂM 1998 NHÂN LOẠI ÍT BỊ BNH TIỂU ĐƯỜNG
Từ những năm 1998 trở về trước, trên thế giới không ai bị bệnh tiểu đường nhiều như ngày nay, thời đó giới y tế cũng đã quan tâm đến bệnh tiểu đường nên có buổi họp chuyên ngành của thế giới để thống nhất về tiêu chuần cách thử đường, định tiêu chuẩn xét nghiệm đường trong máu và thống nhất tiêu chuẩn xác định như thế nào mới được xem ai là người bị bệnh tiểu đường và cách điều trị.
Tây y định nghĩa bệnh tiểu đường là bệnh chuyển hóa đường từ thức ăn, do chức năng chuyển hóa của tỳ-vị (lá lách và bao tử) thiếu chất insulin.
Thiếu đường hoặc dư đường trong máu làm rối loạn chức năng ở các cơ quan, và các mạch máu lớn và mao mạch.
Tây y chẩn đoán bệnh tiểu đường, thử ở mức đói sáng ngủ dạy chưa ăn gì, hoặc thử tại chỗ, cho bệnh nhân uống 75g đường glucose (12 thìa cà phê) rồi 2 giờ sau thử đường, gọi là thử tiêu chuẩn mức no.
1- Tiêu chuẩn để chẩn đoán bệnh tiểu đường năm 1979 :
Ủy Ban Quốc Gia về bệnh tiểu đường đã đưa tiêu chuẩn áp dụng trên toàn thế giới như sau :
a-Đường lúc đói cao hơn hay bằng 140mg/dL (=7.8mmol/l), phải thử hai lần vào 2 lúc đói khác nhau.
b-Đường lúc no, thử lúc bất kỳ cao hơn hay bằng 200mg/dL (=11.1mmol/l).
c-Hoặc cho uống 75g đường glucose, đợi sau 2 giờ thử đường cao hơn 200mg/dL, nhưng khi đói lại thấp hơn 140mg/dL thường xuất hiện ở những đàn ông bị bệnh bất lực hay sản phụ sinh con nặng hơn 4kg, hoặc nhiễm nấm âm đạo.
Tóm lại :
Đường-huyết khi đói :
Dưới 140mg/dL=7.8mmol/l là không bị bệnh tiểu đường, cao hơn 140mg/dL là ngươi có bệnh tiểu đường.
Sau khi ăn no :
Đường-huyết thấp dưới 200mg/dL=11.0mmol/l là không bị bệnh tiểu đường, cao hơn là người có bệnh tiểu đường.
Với tiêu chuẩn này thì tất cả chúng ta không có bệnh tiểu đường, và số lượng người bị bệnh tiểu đường trên thế giới rất ít, và tiêu chuẩn này môn Khí Công Y Đạo vẫn đang áp dụng cho đến ngày nay, và chính tôi đo đường-huyết của tôi trước và sau khi ăn vẫn nằm trong tiêu chuẩn này hơn 40 năm qua không hề có bệnh gì do hậu qủa của đường cao.
Nếu so với tiêu chuẩn mới ngày nay thì tôi sẽ là người có bệnh tiểu đưởng cao rồi, nhưng tôi từ chối không dùng thuốc chữa tiểu đường vì theo tiêu chuẩn này tôi không hề có bệnh tiểu đường, nên vẫn khỏe mạnh không dùng thuốc tránh được những biến chứng bệnh do hậu quả của thuốc chữa tiểu đường.
2-Ngành y tìm ra bệnh tiểu đường loại 2 và thay đổi tiêu chuẩn đường trên thế giới lần thứ hai năm 1998Uỷ Ban các chuyên gia về chẩn đoán và phân loại bệnh Tiểu Đường (The Expert Committee on Diagnosis and Classification of Diabetes Mellitus) đã công bố tiêu chuẩn chẩn đoán và phân loại mới của bệnh Tiểu Đường tại hội nghị thường niên của Hội đái tháo đường Mỹ (ADA) ở Boston. Tổ chức Y Tế Thế Giới công nhận vào năm 1998.
a-Đường-huyết lúc đói cao hơn hay bằng 126mg/dL=7.3mmol/l sau 1 đêm nhịn đói hay sau 8 giờ không ăn, phải thử 2 lần khác nhau. (thấp hơn tiêu chuẩn cũ)
b-Đường-huyết thử lúc bất kỳ cao hơn hay bằng 200mg/dL=11mmol/l (giống tiêu chuẩn cũ)
Thêm 2 tiêu chuẩn mới :
c-Rối loạn đường-huyết lúc đói : 110-125mg/dL ( =6.5-7.2mmol/l)
d-Rối loạn đường-huyết lúc no : 140-199mg/dL (=8.0-11mmol/l)
Như vậy người không có bệnh tiểu đường lúc đói phải thấp hơn 110mg/dL (dưới 6.5mmol/l) thì không bị bệnh tiểu đường, còn cao hơn thì có bệnh tiểu đường
Lúc no, hay sau khi uống 75g đường glucose rồi thử thấp hơn 140mg/dL là chuyển hóa tốt bình thường không có bệnh tiểu đường.
Chúng ta nhận thấy, trong tiêu chuẩn mới này có mâu thuẫn, là sau khi ăn, đường-huyết vẫn giữ tiêu chuẩn cũ dưới 200mg/dL thì không bị chẩn đoán bị bệnh tiểu đường.
Tuy nhiên theo 2 tiêu chuẩn mới bị xếp vào loại rối loạn đường huyết lúc đói và lúc no.
Đó là bước chuẩn bị cho thời gian hạ tiêu chuẩn tiểu đường thấp hơn để ngành y-dược có cơ hội bào chế thêm thuốc sẽ tăng thêm lợi nhuận vì hàng triệu người sắp bị chẩn doán có bệnh tiểu đường, mà không đưa ra lý do những biến chứng hậu qủa của bệnh thiếu đường sẽ gây ra những bệnh gì, và đường cao hơn tiêu chuẩn sẽ gây ra những bệnh gì
3-Lợi nhuận của các công ty y-dược Mỹ thu được thêm nhiều người không bị bệnh tiểu đường trở thành bệnh nhân bị bệnh tiểu đường, theo nghiên cứu của Bác Sĩ Nguyễn Thượng Chánh trong bài viết : Vạch Trần Sự Thật về ngành Y-Dược, như sau :
Bênh tiểu đường loại II
Ngày xưa được xác định là đường huyết phải trên mức 140mg/dL.Năm 1997, ngạch mức trên bị Cơ quan y tế thế giới OMS rút xuống còn 126 mg/dL (7mmol/L)…Lập tức có thêm 1 700 000 người Mỹ được xếp vào danh sách bệnh nhân tiểu đường (suốt đời!)
“Trên thế giới, chỉ có hai nhóm người: nhóm người đã bệnh rồi và nhóm người chưa biết họ bệnh.” Đó là mục tiêu của các nhà bào chế dược phẩm.
4-Tiêu chuẩn để chẩn đoán bệnh tiểu đường năm 2003 :
Hiệp Hội Tiểu Đường các nước còn bất đồng về tiêu chuẩn đường trong lần thay đổi thứ ba năm 2003
Năm 1997, Ủy ban các chuyên gia về bệnh tiểu đường định nghĩa rối loạn đường-huyết đói : 110-125mg/dL (6.5-7.2mmol/l) và năm 2003 WHO và nhiều Hiệp Hội về bệnh tiểu đường không chấp nhận đề nghị này.
Vì có mâu thuẫn theo tiêu chuẩn lần thứ nhất khi đói không bị bệnh tiểu đường nằm trong 100-140mg/dL, nay lại phân loại từ 126-140 mg/dL là có rối loạn đường huyết,
Cũng vì không đòng thuận, nên các công ty được phẩm khác nhau trên thế giới sản xuất các hộp que thử đường ghi trên hộp của các hãng sản xuất dược ghi khác nhau tùy theo tiêu chuẩn mỗi nước. Như hãng Bayer có hộp que thử đường hiệu Contour ghi tiêu chuẩn bình thường từ 6.3-7.9mmol/l, nhưng hãng Roche sản xuất que thử hiệu Accu-Chek tiểu đường cao ghi từ 14.1-19.1mmol/l tiểu đường thấp ghi từ 1.7-3.3mmol/l, như vậy những người nằm trong khoảng giữa 3.4-14.0mmol/l không ghi chú, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Và khi những bệnh nhân được bác sĩ chẩn đoán có bị bệnh tiểu đường phải uống thuốc, thì bệnh nhân thắc mắc, đem những hộp que thử tiểu đường của mình lên đưa cho bác sĩ, nói rằng theo tiêu chuẩn này chúng tôi không có bị bệnh tiểu đường, bác sĩ trả lời : Không cần biết, chúng tôi được học những ai có đường huyết cao hơn 6.2mmol/l là có bệnh tiểu đường.
5-Thay đổi tiêu chuẩn lần thứ tư năm 2010
Tháng 1/2010 với sự đồng thuận của các úy ban quốc gia các nuớc công bố tiêu chuẩn mới, đưa cách thử HbA1c thử máu trong phòng thí nghiệm vào tiêu chuẩn, và lấy tiêu chuẩn HbA1c là cao hơn hay bằng 6,5%, đó là cách thử Glycohemoglobin. Nhưng không áp dụng cho trường hợp có bệnh thiếu máu, bệnh hồng cầu, vì kết qủa sẽ không chính xác, nên lại phải dựa vào tiêu chuẩn đói và no. Lúc đói cao hơn 126mg/dL (7.3mmol/l), lúc no cao hơn 200mg/dL (11.0mmol./l) là có bệnh tiểu đường.
Nếu cả hai xét nghiệm lọt đúng tiêu chuẩn trên mức quy định kể trên thì xác định bị bệnh tiểu đường, còn chỉ có một, thì phải thử lại.
Lý thuyết thì như vậy, trên thực tế, một trong hai kết quả trên tiêu chuẩn vẫn phải bị uống thuốc trị tiểu đường, một sự bất đồng khác về chuyên môn có vẻ như đánh lừa mọi người vì tiêu chuẩn thay đổi còn bất đồng ý kiến tiêu chuẩn lấy mức 126mg/dL, cao hơn là bị bệnh tiểu đường, nhưng vì lợi nhuận của các công ty y-dược, nên họ có cả một hệ thống thông tin, liên kết với các bác sĩ, cơ quan bảo hiểm sức khỏe, mở các khóa học tu nghiệp ngành y, ngành dược hàng năm, luôn luôn hù dọa dồn dập trên truyền thông báo chí, tạp chì y khoa ra rả mỗi ngày nói về sự nguy hiểm của đường, và mặc dù Hiệp Hội Tiểu đường các nước chưa đồng thuận, nhưng các bác sĩ đã được đi tu nghiệp đều thống nhất hạ tiêu chuẩn đường-huyết thấp hơn so với tiêu chuẩn năm 2010, có nơi định tiêu chuẩn đường huyết khi đói trên 6.2mmol/l=104mg/mg/dL là người có bệnh tiểu đường phải dùng thuốc hay nhẹ nhàng hơn thì cảnh báo bệnh nhân đang có dấu hiệu tiền tiểu đường.
Một mâu thuẫn bất đồng khác, ngành dược kinh doanh vì lợi nhuận tạo ra hệ thống truyền thông y tế cùng với các bác sĩ ngành y và các cơ quan bảo hiểm vẫn đồng thuận tiêu chuẩn định bệnh tiểu đường cho những ai khi bụng đói trên 104mg, nhưng ngành được sản xuất vẫn ghi trên hộp que thử tiêu chuẩn bình thường không bị bệnh từ 6.3-7.9mmol/l =106-139mg/dL để tránh bị bệnh nhân thưa kiện khi có biến chứng xẩy ra do hậu quả của thuốc hạ đường thấp dưới mức này thì không phải đền tiền thiệt hại, vì không phải lổi của ngành dược, còn ngành y không bác sĩ nào có lỗi vì tất cả đồng thuận áp dụng tiêu chuẩn thấp như đã được học.
Chúng ta thử tưởng tượng số doanh thu của các công ty y-dược tăng đến chừng nào khi có thêm hàng triệu bệnh nhân vì sợ bệnh tiểu đường phải chấp nhận uống thuốc chữa bệnh tiểu đường, mà thực ra chúng ta không hề có bệnh tiểu đường.
B-TIÊU CHUẨN ĐỊNH BỆNH TIỂU ĐƯỜNG BẰNG CÁCH THỬ HbA1c
1-Nguyyên nhân hạ thấp tiêu chuẩn đường-huyết :
Tây y cho rằng nhiều nghiên cứu cho thấy, người nào có đường-huyết lúc đói thấp hay bằng 140mg/dL thì khi no lại cao hơn 200mg/dL, theo thống kê có khoảng 33% những người như thế lại không được chẩn đoán là có bệnh tiểu đường ? Như vậy đã bỏ sót nhiều người.
Điều này không đúng hoàn toàn, đường cao sau khi ăn là do ăn nhiều thức ăn có nhiều đường, nhưng chức năng điều tiết insulin vẫn tốt nên khi đói vẫn trở lại thấp dưới 140mg/dL, và khi bệnh nhân biết sau khi ăn mà cao thì tự họ bớt ăn thì có gì làm cho đường cao hơn 200mg/dL. Lý do này không thuyết phục vì không phải mọi người sau khi ăn lúc nào cũng có khoảng 33% người bệnh tiểu đường.
2-Tại sao lại lấy ngưỡng đường huyết 2 giờ sau uống 75g glucose ≥ 200mg/dL và mức đường huyết đói ≥ 126 mg/dL là có bệnh Tiểu đường?
Hiệp hội Đái Tháo Đường thế giới đã đồng thuận tiêu chuẩn này chưa?
Khi theo tiêu chuẩn mới này thì không cần phải xét nghiệm pháp dung nạp đường 75g sau 2 giờ, gây tốn kém thời gian và tiền bạc, và sẽ không bỏ sót các trường hợp bệnh tiểu đường không được chẩn đoán.
Tuy nhiên trên thực tế, những người đang dùng thuốc trị tiểu đường, lúc đói vẫn cao hơn 125mg/dL và lúc no vẫn cao hơn 140mg/dL, chúng ta rút ra được kết luận 2 điều :
a-Thuốc tiểu đường vẫn không làm hạ đường dưới mức tiêu chuẩn.
d-Thời gian dùng thuốc trị tiểu đường dài lâu suốt đời mà vẫn cao hơn tiêu chuẩn mà không bị tử vong như báo cáo.
Khi theo dõi sự thay đổi của đáy mắt với mức đường khi no cao trong khoảng 190- 200mg/dL, và khi đói trong khoản 120-130mg trở lên, thì tỷ lệ bệnh võng mạc tăng lên.
Đây cũng là một cách biện minh có vẻ chuyên môn, nhưng thật ra khi đường huyết đo trên tay xuống thấp 66mg/dL thì võng mạc cũng tăng lên làm lóa mắt không nhìn rõ chữ và không thấy chữ giống như mắt bị nhỏ thuốc Atropin, phải uống ngay 3 thìa đường cát vàng cho đường huyết thử trên tay lên 136mg thì mắt mới trở lại tình trạng bình thường.
Trong nghiên cứu này còn nói thấy tỷ lệ mới mắc bệnh mạch vành gây tử vong có mức đường-huyết lúc đói cao hơn 125mg/dL khi đói và khi no cao hơn 140mg/dL. Nhưng không thấy biến chứng mạch máu lớn và mao mạch.
Đây cũng là một cách hù dọa, so tiêu chuẩn mới với tiêu chuẩn ban đầu khi đói dưới 140mg/dL, khi no dưới 200mg/dL, thì từ trước chúng ta đã có những thống kê bao nhiêu người bị bệnh mạch vành gây tử vong mà có đường huyết cao hơn 125mg/dL ?
Đó cũng là một sự hù dọa có vẻ khoa học đánh lừa các nhà trí thức còn mê ngủ chăng ?
Vì chính các nhà trí thức còn mê ngủ này dù là bác sĩ hay kỹ sư vẫn tin tưởng vào khoa học nói gì đúng đó, a dua theo, hù dọa đường cao hơn 126mg/dL rất nguy hiểm, đã gây ra một hậu quả hại người làm tất cả mọi người dù không có bệnh tiểu đường cũng kiêng sợ không dùng đường, chính mình cũng sợ ăn ngọt, nên số người bị bệnh thiếu đường khoảng 80% nhiều hơn so với người đang bị bệnh tiểu đường 20%, mà hậu quả của bệnh thiếu đường của cả hai loại trở thành bệnh Hypoglycémie, gây ra nhiều bệnh nan y và chết âm thầm tây y không tìm ra bệnh. Tại sao ? vì thật ra nguyên nhân trước mắt nhìn thấy là đường thấp bị bỏ qua vì cho là đường thấp dưới tiêu chuẩn thì tốt, và chính những nhà trí thức còn mê ngủ này cũng nằm trong số nạn nhân bị bệnh thiếu đường, cơ thể thiếu năng lượng không khỏe mạnh, vì tế bào không được cung cấp đường giúp tế bào có năng lượng hoạt động.
Như vậy thì thức ăn nuôi tế bào chính là 3 chất căn bản : chất béo, chất bột, chất đường nằm trong tế bào chất để nuôi nhân tế bào phát triển. Khi tế bào thiếu đường thì không có năng lượng hoạt động, tế bào sẽ teo yếu dần trở thành tế bào ung thư, nên tế bào ung thư không phải do vi trùng làm tế bào ung thư, và đa số trí thức mê ngủ lại tin vào lý thuyết đường sẽ làm tế bào ung thư phát triển, vì thí nghiệm tiêm đường vào cơ thể thì đường chạy ngay vào tế bào ung thư là thật. Thật ra các tế bào ung thư đã là tế bào đói đường, nó cần được giữ lượng đường căn bản để hoạt động bảo vệ sự sống cho con người, và tế bào không có đường tế bào sẽ chết.
Do đó lượng đường và máu rất quan trọng cho sự sống con người và nhiều người cũng đã hiểu lầm là những người bị ung thư cấm không được bổ máu và đường sẽ làm ung thư phát triển là sai, vì trong 100% tế bào thiếu máu thiếu đường thì trong đó có 5% tế bào đã qúa yếu chờ chết, bỗng dưng được tiếp máu và đường, thì 95% tế bào khỏe hơn tiếp nhận máu và đường trước sau mới đến 5% tế bào ung thư được phục hồi sau.
Nhiều bệnh nhân ngoại quốc bị ung thư tây y đã chê, hẹn 3 tuần chết, đến gặp tôi, được khuyên, đằng nào cũng chấp nhận chết, nhưng tại sao không thử, một là cho chết nhanh hơn dự định, hai là sống khỏe hơn, cuối cùng thì sống khỏe thoát chết nhờ theo dõi áp huyết và đường đúng tiêu chuẩn.
Muốn biết tế bào có dấu hiệu ung thư không thì cần phải đo áp huyết bên tay phải, số tâm trương diastolic dưới 60mmHg là thiếu máu trong gan cung cấp cho tim bơm dẫn máu đến các tế bào không đủ, và phải đo đường trong máu phải đủ từ 100-140mg/dL khi bụng đói, từ 140-200mg/dL khi bụng no là cơ thể đủ đường, thấp dưới 80mg/dL lâu ngày tế vào sẽ trở thành tế bào ung thư
3-Tiêu chuẩn định bệnh tiểu đường theo cách thử Glucohemoglobin HbAc1 năm 2010
Hiệp hội Đái Tháo Đường Thế Giới quy định : Nếu HbA1c cao hơn hay bằng 6.5%, nhưng đường-huyết lúc đói thấp hơn 126mg/dL thì thử lại HbA1c.
Hay ngược lại nếu HbA1c thấp hơn mà thử đường lúc đói cao hơn thì thử lại lúc đói. Tuy nhiên 1 trong hai thử nghiệm cao hơn vẫn kết luận có bệnh tiểu đường.
Trường hợp nghi ngờ nên lập lại xét nghiệm 3-6 tháng.
4-Tiêu chuẩn định bệnh tiểu đường theo cách thử Glucohemoglobin HbAc1 năm 2011 lại tự động thay đổi tiêu chuẩn thấp hơn.
Năm 2011 cơ quan WHO đã chấp nhận đưa phương pháp thử HbA1c và thống nhất tiêu chuẩn như sau :
• Đường huyết tương lúc đói < 100 mg/dl (< 5,6 mmol/L) là đường huyết đói bình thường.
• Đường huyết tương 2 giờ sau uống 75g glucose< 140mg/dl (< 7,8mmol/L) là dung nạp glucose bình thường.
• HbA1c < 5,7%.
5-Vì sao năm 2010 đưa HbA1c vào tiêu chuẩn ≥ 6,5%? (135mg/dL) chẩn đoán Bệnh Tiểu Đường và năm 2011 lại lấy tiêu chuẩn ≥ 5.7% (105mg/dL) ?
Trong báo cáo mới đây sau khi xem xét các bằng chứng và sự thiết lập của các nghiên cứu dịch tể học cho thấy tỉ lệ bệnh võng mạc gia tăng có liên hệ với HbA1c ở mức từ 6,2% – 6,5%. Ủy ban các chuyên gia Quốc tế đã đưa HbA1c vào tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh tiểu đường với ngưỡng ≥ 6,5% và ADA đã khẳng định lại quyết định này. Các nghiên cứu dịch tể cho thấy có mối liên hệ giữa HbA1c và nguy cơ xuất hiện bệnh lý võng mạc tương tự như mối liên hệ giữa mức đường huyết đói và đường huyết 2 giờ sau uống 75g Glucose.
Xét nghiệm HbA1c có nhiều tiện ích cho chẩn đoán vì không cần phải nhịn đói mà có thể thực hiện bất cứ lúc nào, lại có tính ổn định nhiều ngày mà không bị rối loạn trong giai đoạn có stress. Phân tích dữ kiện các điều tra sức khoẻ và dinh dưỡng Quốc gia cho thấy có khoảng dưới 1/3 bệnh nhân bệnh tiểu đường không được chẩn đoán ở ngưỡng HbA1c ≥ 6,5% có mức đường huyết đói ≥ 126mg/dl, mà thật ra phải là ≥ 137mg/dl
Chỉ dựa vào lý do bệnh mắt là lý do mơ hồ mà hạ đường huyết, trong thực tế mắt bị mù vì đường-huyết hạ thấp do hậu qủa của việc dùng thuốc hạ đường xuống thấp dưới 4.0mmol/l làm teo thần kinh thị giác mà không ai phát hiện hay cố tình lờ đi những phản ứng phụ do hậu qủa của thuốc chữa bệnh tiểu đường ?
6-Thử nghiệm HbA1c như thế nào, để làm gì ?
Liên đoàn hiệp hội bệnh tiểu đường quốc tế khuyến cáo thử HbA1c để chẩn đoán bệnh tiểu đường loại 1. loại 2. thử nghiệm náy có nhiều tên gọi khác nhau như glycated hemoglobin, hemoglobin glycosyl hóa, hemoglobin A1C và HbA1c., nó phản ảnh đường trong máu trung bình 2-3 tháng qua, tìm phần trăm của hemoglobin là một loại protein trong các tế bào máu đỏ mang oxy, được phủ một lớp đường glycated.
Khi thử nghiệm có thể ăn uống bình thường trước khi thử nghiệm, dùng kim lấy ít máu ở tĩnh mạch cánh tay gửi đến phòng thí nghiệm.
Kết qủa xếp loại như sau :
Những tỷ lệ % của HbA1c tương đương với máy thử đường cá nhân ở đầu ngón tay :
4.0% 60mg/dL (4.0mmo/l)
4.5% 75mg/dL (4.7mmol/l)
5% 90 mg / dL (5.5 mmol / L). 6% 120 mg / dL (7.0 mmol / L).
6.5% 135mg/dL (7.7mmol/l) 7% 150 mg / dL (8.3 mmol / L). 8% 180 mg / dL (10 mmol / L). 9% 210 mg / dL (11,7 mmol / L). 10% 240 mg / dL (13,3 mmol / L). 11% 270 mg / dL (15 mmol / L). 12% 300 mg / dL (16,7 mmol / L). 13% 333 mg / dL (18,5 mmol / L). 14% 360 mg / dL (20 mmol / L).
Xét nghiệm không chính xác nếu có bệnh xuất huyết, thiếu hồng cầu, làm kết quả thấp, hay thiếu máu, thiếu chất sắt, hay bệnh về máu kết qủa có thể giả cao hay giả thấp, và các kết qủa thử nghiệm khác nhau đôi chút ở các phòng thí nghiệm khác nhau..
Kiểm chứng các chỉ số thử đường HbA1c tương đương với trị số thử đường trên tay như bảng trên đây để chúng ta so sánh và tự tìm hiểu xem mình có bị bệnh tiểu đường hay không theo quy ước là 1 trong 2 thử nghiệm cao hơn tiêu chuẩn mới bị bệnh tiểu đường thì chúng ta nhận thấy nếu tiêu chuẩn thử đường 3 tháng 1 lần khi xét nghiệm máu là đúng thì trị số đường trên tay sẽ sai, điểm này các bác sĩ có nhìn ra không ?
HbA1c ≥ 6,5% có mức đường huyết đói ≥ 126mg/dl. thay vì tương đương với 135mg/dL
7-Bệnh tiền tiểu đường là gì ?
Chính là do các bác sĩ được tu nghiệp trong hệ thống truyền thông y tế hàng năm, giống như đi nghe chỉ thị, rồi về thực hành, cho các bệnh nhân nào lọt vào tiêu chuẩn vượt ngưỡng trên 6.5mmol/l là phải dùng thuốc trị bệnh tiểu đường.
Nhiều bác sĩ dù có thắc mắc cũng không dám hỏi hay chất vấn về mâu thuẫn giữa hai kết quả thử trên tay và thử máu qua xét nghiệm HbA1c, vì sợ mất bằng hành nghề.
Hiệp Hội đái tháo đường Hoa Kỳ đánh giá kết quả điều trị tiểu đường căn cứ trên 2 yếu tố:
Không cần điều trị tiểu đường, vì thấp hơn tiểu chuẩn là :
Đường huyết 60 -99< 100 mg/dl trước khi ăn.
Đường huyết < 140 mg/dl trước khi đi ngũ. HbA1c 4%-< 6% (60mg/dL-119mg/dL)
Mục tiêu điều trị bệnh tiểu đường là :
Đường-huyết 70-130 mg/dl 100-180 mg/dl < 7% (149mg/dL) < 70 mg/dl hay > 130 mg/dl < 100 mg/dl hay > 180 mg/dl > 7% (150mg/dL)
Chỉ với tiêu chuẩn mới riêng của Mỹ đang áp dụngnên số người không bị bệnh tiểu đường tự nhiên gia tăng thêm hàng triệu người lọt vào tiêu chuẩn tiền tiểu đường và bệnh tiểu đường, cả hai loại đều đã có chuẩn bị thuốc chữa trị ?
Và có một mâu thuẫn chưa được giải thích chính đáng là :
Không cần điều trị tiểu đường, vì thấp hơn tiểu chuẩn là :
Đường huyết 60 -99< 100 mg/dl trước khi ăn.
Đường huyết < 140 mg/dl trước khi đi ngũ. HbA1c 4%-< 6% (60mg/dL-119mg/dL)
Quy định này chỉ áp dụng cho những người chưa bị liệt kê chẩn đoán có bệnh tiểu đường thôi, còn thực tế tiêu chuẩn này không áp dụng cho những ai đang dùng thuốc trị tiểu đường.Vì đa số bệnh nhân đang dùng thuốc trị tiểu đường sau khi dùng thuốc kiểm soát được lượng đường trước khi ăn dưới 100mg/dL và sau khi ăn dưới 140mg/dL trong một thời gian dài do kiêng đường, tại sao vẫn phải tiếp tục dùng thuốc làm hạ đường để gây ra những biến chứng bệnh của người thiếu đường (Hypoglycémie) ?
Có người giải thích là khi bệnh nhân khỏi bệnh tiểu đường, hay lúc dùng lúc không, thì lợi nhuận của các hãng dược phẩm không ổn định. Do đó, dù bệnh nhân đã có lượng đường thấp như người bị bệnh thiếu đường cũng vẫn phải uống thuốc suốt đời thì bệnh nhân mới không bị rầy rà bởi hệ thống liên kết bác sĩ gia đình+ ngành dược cung cấp thuốc hàng tháng và ngành bảo hiểm y tế của mình, họ sẽ bỏ rơi mình không chịu trách nhiệm bảo vệ sức khỏe cho mình nữa.
C-ƯU KHUYẾT ĐIỂM CỦA TÂY Y :
1-ƯU ĐIỂM :
a-Có những máy móc thử nghiệm phát hiện sớm được bệnh tiểu đường.
b–Có những thuốc uống ngừa được đường huyết không bị tăng qúa cao gây ra những biến chứng của bệnh tiểu đường cao.
c-Có máy thử đường cá nhân cho những bệnh nhân để tự theo dõi thử đường-huyết mỗi ngày, để ngăn ngừa bệnh đường-huyết cao.
Để ngăn ngừa bệnh đường-huyết cao sẽ làm tăng nồng độ máu, tăng thân nhiệt vì lớp đường glycated có trong hồng cầu làm giãn những ống mạch lớn, hở van tim, và hư thận, tăng áp huyết, hỏng võng mạc làm mờ mắt.
2-KHUYẾT ĐIỂM :
a-Theo tiêu chuẩn không có bệnh tiểu đường, khi thử HbA1c thấp hơn tiêu chuẩn và thử đường bằng máy đo cá nhân thấp dưới 130mg/dL khi bụng đói và duới 140mg/dL khi bụng no. Vậy tại sao những người đuợc chẩn đoán có bệnh tiểu đường, phải uống thuốc trị tiểu đường một thời gian, hai chỉ số này thấp dưới tiêu chuẩn là khòi bệnh tiểu đường thì sao không được ngưng thuốc ?
b-Đa số những người bị bệnh tiểu đường, đã bị uống thuốc trị tiểu đường để làm hạ đường trong máu, ngoài ra họ sợ đường huyết tăng, lại kiêng không ăn đường, thì làm sao còn có bệnh dư đường, khi tự họ thử đường trên tay đã thấp, 3 tháng sau thử máu chỉ số HbA1c cũng đã thấp khiến cơ thể thiếu đường trầm trọng, gây ra biến chứng bệnh hypoglycemie mà không được ngưng thuốc? Như vậy việc thử HbA1c bị bỏ qua, thì không cần thiết phải thử nữa.
c-Tây y đã thay đổi tiêu chuẩn đường chỉ vì một lý do bệnh võng mạc tăng, trong khi đó các bác sĩ chuyên khoa khác chưa nghiên cứu trên bệnh nhân, khi đường cao bao nhiêu, hay thấp bao nhiêu thì có ảnh hưởng gì đến bệnh phổi như suyễn, ngắn hụt hơi, tim suy do đường cao hay thấp thế nào, thận có ảnh hưởng đường tăng thành bệnh tiêu khát, nhưng chưa nghiên cứu khi đường thấp thận bị ảnh hưởng ra sao, gan bị ảnh hưởng ra sao khi đường cao, đường thấp, bác sĩ nhãn khoa khi chữa mắt cho bệnh nhân cũng cần nghiên cứu tại sao những người chưa dùng thuốc trị tiểu đường thì mắt còn sáng rõ, khi đường xuống thấp trở thành bệnh hypoglycemie mới khám phá ra là mắt sắp bị mù, làm nhiều người cho rằng bệnh nhân bị bệnh tiểu đường làm mù mắt, mà sự thật do tiêu chuẩn đường bị hạ thấp gây ra mù mắt …
Khi tất cả các bác sĩ chuyên khoa cùng nghiên cứu tìm ra tiêu chuẩn nào tốt, xấu cho mắt, cho gan, tim, phổi, thận, cho xương tùy, óc, thần kinh, lúc đó sẽ có giới hạn tiêu chuẩn bao nhiêu là thấp, bao nhiêu là cao, để giúp cho bệnh nhân hiểu cách dùng máy đo đường hàng ngày để tự điều chỉnh đường-huyết cho hợp lý.
d-Ở các quốc gia khác, thường được các bác sĩ khuyến khích bệnh nhân tự dùng máy thử đường cá nhân theo dõi đường huyết khi đói khi no trong tiêu chuẩn, nếu có cao hơn, họ khuyên nên tập thể dục để chuyển hóa đường cho đường thấp dưới tiêu chuẩn, trừ khi đường-huyết không xuống mới dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ.
e-Phương pháp ngăn ngừa bệnh thừa đường của những bệnh nhân bị bệnh tiểu đường, đều được khuyên cần tập thể dục thể thao, giúp đường chuyển hóa, nhưng bệnh nhân chỉ tin vào thuốc, có máy thử đường trong tay mà không chịu thử xem đường-huyết thay đổi thế nào trước khi tập và sau khi tập tăng giảm khác nhau thế nào, cho nên những người bị bệnh tiểu đường do đường tử thức ăn không chuyển hóa, đa số do nguyên nhân lười vận động lười tập thể dục thể thao.
Thật ra những người lười không vận động bằng sức lao động chân tay mà làm việc bằng trí óc, đường trong cơ thể không chuyển hóa đều trong máu, nên thử đường ở nhiều nơi trên cơ thể đều cho ra nhưng con số khác nhau chệnh lệch rất nhiều.
Thí dụ thử đường ở ngón tay mỗi ngày có khi cao, có khi thấp, khi cao do ăn thức ăn có dư thừa chất ngọt, khi thấp do kiêng thức ăn không có chất ngọt, tuy nhiên nếu thử đường-huyết trên đầu lông mày, và giữa lông mày đối với những bệnh nhân tiểu đường đã được các bác sĩ nhãn khoa chẩn đoán là mù mắt, thì ở 2 điểm thử này đường-huyết thuờng thấp dưới 50mg/dL, còn mắt sáng đường-huyết từ 100-140mg/dL là tốt, đường trên mắt theo đông y thuộc về chức năng chuyển hóa của gan thận hoạt động tốt thì dù lúc no đường cao hơn 140mg hay đói thấp hơn 140mg, thì tự chức năng gan thận vẫn điều chỉnh ở tiêu chuẩn đường-huyết của mắt sáng trong tiêu chuẩn đường trên mắt từ 100-140mg/dL..
Tại sao hai mắt có kết qủa đường-huyết khác nhau, chính là vì bên mắt mù do thiếu đuờng làm teo thần kinh thị giác, vì không chịu vận động thể dục thể thao, nên khi đo đường cùng lúc ở ngón chân, ngón tay, trên lưng cột sống nơi thoái hóa đốt xương cổ xương lưng, hay nơi ngón tay bị tê lạnh, cùi chỏ, hay vai đang bị đau nhức, đều có kết qủa chệch lệch khác nhau, nơi nào thấp nhất là nơi đó bệnh nặng nhất, đau nhất, do thiếu vận động để cơ thể chuyển hóa đường đồng đều.
PHẦN II
TÌM HIỂU NHỮNG THUỐC TRỊ TIỂU ĐƯỜNG VÀ PHẢN ỨNG PHỤ CỦA THUỐC
A-NGUYÊN NHÂN CỦA BỆNH TIỂU ĐƯỜNG
Trong thức ăn chúng ta ăn hàng ngày ít nhiều đều có chất ngọt không nhiều thì ít, bộ máy tiêu hóa của chúng ta rất tinh vi chế biến thành một lọai đường Glucose đi vào máu đến nuôi các tế bào trở thành năng lượng.
Theo đông y chất ngọt nuôi tỳ vị và ngược lại chức năng tỳ vị cũng đã có chất điều hòa chất ngọt gọi là dịch vị từ tụy tạng tiết ra tây y gọi là chất insulin. Khi chức năng tỳ vị không co bóp đúng và đủ, ngược lại mạnh quá hay yếu quá làm thiếu hay thừa insulin chúng ta đo đường-huyết lượng đường sẽ không ổn định, đường không vào được bên trong tế bào mà lại ở trong máu với số lượng cao gây ra bệnh đường-huyết cao, ngược lại trong máu thiếu đường để dẫn vào nuôi tế bào thì cơ thể thiếu năng lượng làm tế bào suy yếu gây ra nhiều bệnh, mà bệnh nặng nhất lả khi tế bào thiếu đường thì trở thành ung thư, do đó tế bào ung thư không do vi trùng, mà tự bị huỷ diệt.
Từ đây đông y phát hiện bệnh xáo trộn đường huyết có 2 lý do :
a- Do thiếu khí đẩy máu đem đường đến nuôi tế bào giúp tế bào có thêm năng lượng hoạt động mặc dù có ăn nhiều đường, mà đường chỉ nằm trong máu, vì lười tập vận động không có khí lực vận chuyển đường trong máu đến nuôi các tế bào. Hậu quả này thận không giữ được đường, đường sẽ theo nước tiểu ra ngoài nên khi thử nước tiểu thấy có đường, nên mới có tên là bệnh đái tháo đường ( nước tiểu ngọt diabetes mellitus)
b-Cơ thể có vận động đủ hay dư thừa khí, nhưng kiêng không ăn đường, trong máu không có đường đem đến cung cấp năng lượng cho tế bào.
Theo tây y vì không có môn tập thể dục chữa bệnh, nên trong thức ăn lúc nào cũng có chất ngọt mà không chuyển hóa nên phải mang bệnh đái tháo đường suốt đời.
Bệnh tiểu đường theo tây y phân làm 2 loại :
Loại 1 là cơ thể không còn sản xuất insulin, nên cách chữa phải tiêm insulin.
Loại 2 là cơ thể còn insulin nhưng tiết không đủ hoặc cơ thể không sử dụng được insulin này, theo đông y cũng vẫn do nguyên nhân cơ thể không hoạt động mạnh làm tăng khí chuyển hóa.
Ngành y dược mang về nhiều lợi nhuận từ khi tìm ra tên bệnh tiểu đường loại 2 và tiền tiểu đường, chiếm khỏang 90% tổng số bệnh nhân bệnh đái tháo đường.
Các nhà trí thức, khoa học, có bằng bảng đều nghĩ rằng người bình thường cơ thể có thể tự điều chỉnh lượng đường trong khoảng 70-100mg/dL, đó là lý thuyết. Còn lấy gì để nó có thể tự điều chỉnh thì cơ thể phải có khí lực chuyển hóa đủ hay thiếu, sẽ có 2 kết quả khác nhau :
a-Nếu đường trong máu cao hơn 140mg/dL khi đói, mà cơ thể không có đủ khí chuyển hóa, có nghĩa là áp huyết thấp dưới 100mmHg không đủ khí đẩy máu tuần hoàn đưa đường nuôi tế bào, thì đường dư thừa nằm trong máu, lúc đó thử đường trong máu cao và trong nước tiểu có đường gọi là đái tháo đường, như vậy khi đã có bệnh đái tháo đường thì hệ thống tự động điều chỉnh yếu không còn khả năng tự điều chỉnh nữa.
b-Người không có bệnh tiểu đường hay nói cho đúng là do nhiễm độc từ truyền thông báo chí, TV, Internet, và từ miệng truyền miệng, và từ các nhà trí thức còn mê ngủ a dua theo ngành y, khuyên người kiêng đường và chính mình cũng kiêng sợ đường, nên lại mắc phải chứng bệnh thiếu đường, cơ thể không đủ đường cung cấp hàng ngày giúp cho tế bào có năng lượng hoạt động, thì lấy đường đâu trong cơ thể tự điều chỉnh được lượng đường từ 70-100mg/dL ? trung bình
Nếu tính theo thống kê nhân số trung bình trong mỗi gia đình 4 người, nếu đã có 1 người bị bệnh tiểu đường đang dùng thuốc, thì bệnh nhân này đã có đường-huyết thấp. Và bệnh viện cũng phải lo cho sức khỏe bệnh nhân này điều trị cho họ những biến chứng của bệnh thiếu đường gây ra, thì một bệnh viện không kham nổi lượng người bị bệnh tiểu đường càng gia tăng (giả tạo do hạ tiêu chuẩn đường huyết thấp). Nhưng 3 người còn lại trong gia đình cũng sợ bị bệnh tiểu đường, nên không dùng đường, kiêng đường trong đời sống hàng ngày, nghe theo hệ thống truyền thông y tế hù dọa, vô tình họ lại bị những biến chứng của bệnh thiếu đường giống như người đang có biến chứng chữa bệnh tiểu đường, như vậy con số người bị bệnh thiếu đường nhiều gấp 3 lần người bị bệnh tiểu đường cũng phải có nhu cầu chữa trị những biến chứng bệnh thiếu đường, vì thế các nước tiên tiến phải xây thêm nhiều cơ sở y tế, bệnh viện gấp 4 lần so với trước, trái ngược với trước năm 2000, một số bệnh viện phải đóng cửa vì không có đủ bệnh nhân.
Các nhà trí thức còn mê ngủ nghĩ có nên tiếp tay cho ngành y tế phát triển theo chiều hướng này không ?
B-CÔNG DỤNG CÁC LOẠI THUỐC CHỮA TIỂU ĐƯỜNG VÀ PHẢN ỨNG PHỤ CỦA THUỐC
Thuốc chữa tiểu đường loại 2 :
Hiện tại có 6 nhóm thuốc :
1-Nhóm Sulfonylurea :
Gồm có Acetohexamide (Dymelor) Chlorpropamide (Diabinese) Glimepiride (Amaryl) Gliclazide (Diamicron) Glipizide (Glucotrol và Glucotrol XL) Glyburide (Diabeta, Glynase, PresTab, Micronase) Tolazamide (Tolinase) Tolbutamide (Orinase)
Tác dụng :
Kích thích tụy tạng tiết thêm insulin nhiều hơn, có thể giúp cơ thể sử dụng tốt insulin, ức chế gan đưa glucose dự trữ vào máu. Các bệnh nhân dễ đáp ứng với sulfonylure. Tuy nhiên theo các báo cáo thống kê trên thế giới có từ 20-15% bệnh nhân dù trị với liều cao sulfonylure cũng vẫn bị thất bại.
Phản ứng phụ :
Thông-thuờng làm mức glucose huyết hạ xuống quá thấp, nhất là trong bốn tháng đầu trị liệu và chức năng của gan thận bị suy yếu.
Sự giảm nhanh tác dụng của sulfonylure khi dùng liều lượng không thích hợp kéo dài đồng thời dùng các thuốc gây tăng đường huyết như steroid, lợi tiểu, chẹn β, sẽ gây ra những phản ứng phụ:
Rối loạn tiêu hóa: táo bón, tiêu chảy, đầy bụng, ợ nóng , ói mửa, ăn mất ngon.
Hạ đường huyết nhanh bất lợi khi dùng chung với rượu làm nhức đầu, phừng nóng mặt, tê rần, muốn ói, choáng váng xảy ra trong vòng từ 10 đến 30 phút sau khi uống thuốc tiểu đường thuộc nhóm này cùng với rượu nhất là với chlorpropamide.
Phản ứng lên cân, ngoài da: ngứa, nổi mẩn, nổi mề đay.
Chống chỉ định :
Phụ nữ có thai, người có bệnh gan, bệnh thận không nên dùng thuốc tiểu đường thuộc nhóm này sẽ làm hại chức năng gan thận, đó là lý do những nạn nhân tiểu đường dùng thuốc một thời gian dài làm hư gan và phải lọc thận.
2-Nhóm Biguanide
Thuốc viên điều trị đái tháo đường không chứa insulin Chỉ dùng cho bệnh nhân tiểu đường loại 2
Thuốc thuộc loại này là metformin (Glucophage, Glucophage XR)
Loại thuốc này ngăn chặn gan sản xuất và phóng thích glucose nên cơ thể sẽ cần ít insulin hơn để chuyển đường trong máu tới các tế bào.
Lọai thuốc này có lợi là không làm lên cân như các thuốc trị tiểu đường khác.
Nhóm Biguanide Metformin (Glucophage) là dạng duy nhất của nhóm này được sử dụng tại Hoa Kỳ. Biguanides ức chế gan đưa glucose dự trữ vào máu và cũng có thể giúp cơ thể sử dụng tốt insulin.
Phản ứng phụ :
Có thể là trong mồm có vị tanh kim loại, không muốn ăn, buồn nôn, ói mửa, có hơi và tiêu chảy. Các phản ứng phụ này sẽ mất dần với thời gian và ít xẩy ra nếu uống thuốc trong bữa ăn.
Ói, đầy bụng, tiêu chảy, ăn không ngon. Chúng ta có thể làm giảm bớt các tác dụng phụ này, bằng cách bắt đầu với liều thấp và uống thuốc vào bữa ăn. Biguanides có thể gây ra tình trạng tăng nhiễm acid lactic trong máu rất nguy hiểm gây hại cho tim, thận, gan và trong người đang dùng chất cản quang để chụp X quang.
Chống chỉ định :
Những người có các bệnh nói trên không nên dùng biguanide.
3-Nhóm thuốc ức chế men Alpha-glucosidase
Các dạng thuốc thường dùng hiện nay là: Acarbose (Glucobay, Precose) và Glyset (Meglitol). Nhóm thuốc ức chế men Alpha-glucosidase ức chế sự phân hóa carbohydrate thành glucose trong ruột, ngăn chặn không cho các enzyme trong hệ thống tiêu hóa làm vỡ các carbohydrate như vậy đưòng được hấp thu vào máu chậm hơn nên mức đường trong máu không tăng đươc nhanh ngay sau bữa ăn như vẫn thông thuởng xẩy ra do đó làm chậm sự hấp thu glucose vào máu. Nhóm này thường dược dùng để giải quyết tình trạng tăng đường huyết sau bữa ăn.
Phản ứng phụ :
Làm đầy hơi, phình chướng bụng, tiêu chảy. Liều cao làm hại gan. Có thể giảm thiểu các tác dụng phụ này bằng cách bắt đầu với liều thấp.
Chống chỉ định :
Bệnh nhân có bệnh đường ruột không nên dùng thuốc này.
4-NhómThiazolidinedione
Nhóm này gồm: Pioglitazone (Actos), Rosiglitazone (Avandia).
Công dụng của nhóm này là kích thích các cơ bắp sử dụng insulin tốt hơn và cũng có thể làm giảm việc đưa glucose vào máu từ đường dự trử trong gan, tăng sự nhạy cảm của các mô với insulin và giữ cho gan không sản xuất quá nhiều glucose
Hiện nay không sử dụng Rosiglitazone nữa vì gây nhiều nguy cơ tim mạch; còn Pioglitazone phải cân nhắc.
Phản ứng phụ:
Viêm đường hô hấp, sưng phù nề toàn thân, lên cân, mệt mỏi, nhức đầu, viêm xoang trên, đau cổ, đau cơ, chóng mặt, làm tổn thương gan.
Vì vậy FDA (Cơ quan quản lý thuốc men và thực phẩm Hoa Kỳ) khuyên nên thử chức năng gan trước khi dùng nhóm thuốc này và trong năm đầu nên thử chức năng gan mỗi 2 tháng cho những ai dùng thuốc nhóm này và sau đó thì thử định kỳ.
Khi gan bị thương tổn do thuốc sẽ có triệu chứng :
Ói mửa, đau bụng, mệt mỏi, chán ăn, nước tiểu đậm mầu, vàng da, vàng mắt.
Chống chỉ định :
Người có bệnh gan, suy tim, đang mang thai không dùng được thuốc nhóm này..
5-Meglitinides Repaglinide (Prandin hay Novonorm, hay repaglinide)
Là dạng duy nhất của nhóm này được dùng hiện nay.
Công dụng: Kích thích tụy tạng tiết thêm insulin. Tác dụng của nhóm này giống sulfanylureas nhưng không làm hạ nhanh xuống qúa thấp nhưng không bền lâu, nên được khuyên nên uống vào lúc bắt đầu bữa ăn, để cho đường huyết không tăng quá cao sau khi ăn.
Phản ứng phụ :
Hạ đường huyết gây ra nhức đầu, ói, viêm đường hô hấp, viêm xoang, viêm phế quản, đau lưng, đau khớp, tăng cân.
6-Thuốc ức chế men DPP-4 (sitagliptin, vildagliptin)
Sitagliptin được chỉ định là trị liệu phụ trợ với chế độ ăn và vận động thể lực để cải thiện việc kiểm soát đường huyết ở bệnh nhân đái tháo đường loại 2 .
Thuốc thuộc loại này là sitagliptin phosphate (Januvia)
Công dụng :
Ngăn-chặn không cho enzyme dipepticyl peptidase 4 hay DPP-4 phá vỡ các protein kích thích sự phóng thích insulin
Phản ứng phụ :
Gây nhiễm khuẩn đường hô hấp, đau cuống họng và tiêu chảy.
7-Những loại thuốc kết hợp :
Amylin mimetics
Thuốc thuộc loaị này là pramlintide (Symlin)
Công dụng : làm thức ăn di chuyển chậm lai qua dạ dày sau khi ăn và như vậy gây ảnh hưởng lên tốc độ xâm nhập của glucose vào trong máu. Dùng cho những bệnh nhân phải chích insulin nhưng không đạt được mức đường trong máu như mong muốn
Incretin mimetics
Thuốc thuộc loại này là exenatide (Byetta)
Công dụng :Giúp điều chỉnh mức glucose khi đói và sau bữa ăn. Dùng kết hơp với metformin hay với hỗn hợp metformin và sulfonylurea
Hai hay ba loại thuốc nói trên có thể kết hơp với nhau để kiềm-chế bệnh tiểu đường cao phải tiêm insulin.
Một số bệnh nhân phải dùng insulin tiêm mỗi ngày vì tụy tạng không có khả năng sản xuất. Insulin không uống được vì khi vào da dày insulin sẽ bi các enzyme phá vỡ nên trở thành vô hiệu. Vì vây bênh nhân thường phải tự chích lấy insulin. Hiện nay đã có loaị insulin hít vào (inhaled insulin Exubera)
Insulin thường dùng là insulin người được tổng hợp trong phòng thí nghiệm như lispro (Humalog), aspart(NovoLog),glargine(Lantus) va glulisine(Aprida).
8-Trách nhiệm của bác sĩ điều trị và sự hợp tác của bệnh nhân :
Khi trị liệu phối hợp thuốc của hai nhóm khác nhau, bệnh nhân phải kiểm soát đường huyết, phối hợp với chế độ ăn uống, chế độ vận động thể lực và theo dõi tác dụng phụ như thuốc Januvia phản ứng dị ứng: phát ban, khó thở, sưng mặt, môi, lưỡi, hoặc cổ họng phải gọi ngay bác sĩ.
Trên lý thuyết có vẻ phối hợp chặt chẽ, trên thực tế thì lỏng lẻo, bệnh nhân theo thói quen cứ uống thuốc mà không đo đường-huyết kiểm chứng, không được chỉ cách tập vận động thể lực như thế nào, và khi có phản ứng phụ thì đi bệnh viện cấp cứu các bác sĩ khác lại chữa những bệnh do biến chứng đó chứ không phải bác sĩ gia đình cho mình dùng thuốc phải điều chỉnh lại thuốc cho mình, trong khi Hiệp hội đái tháo đường cũng đã khuyến cáo bệnh phải ngưng ngay thuốc Januvia khi bị viêm lá mía tụy tạng có dấu hiệu đau vùng thượng vị lan rộng đến lưng, buồn nôn ói mửa, ăn mất ngon, nhịp tim nhanh, hay có dấu hiệu sốt đau họng, đau đầu như búa bổ, đỏ da, nghẹt mũi, tiêu chảy.
Tây y cũng khuyến cáo thuốc trị tiểu đường không thể thay thế chế độ ăn uống có kế hoạch và thay thế việc vận động cơ thể và không tập thể dục thì cũng không thể kiểm soát được căn bệnh này.
Bệnh tiểu đường có thể dùng thuốc và insulin để điều trị nhưng nếu áp dụng thảo dược và Thực Phẩm Chức Năng (TPCN) để chữa bệnh thì không những không có hại gì mà trong một số trường hợp, phản ứng của bệnh nhân còn cho tác dụng tốt hơn thuốc
TPCN Với các dòng sản phẩm chiết xuất từ thiên nhiên là chính được dùng để điều trị hỗ trợ bệnh tiểu đường, làm giảm glucose máu, ngăn ngừa các biến chứng của bệnh tiểu đường trên tim, gan, thận, võng mạc……
Một số thuốc và TPCN thường được các bs khuyên dùng gôm : ayubes . biogreen .Herbalife.Royal Jelly…và hiện nay là Nuskin.
PHẦN III :
BỆNH ĐƯỜNG-HUYẾT THẤP LÀ GÌ ? NGUYÊN NHÂN, HẬU QỦA VÀ CÁCH CHỮA.
A-CẢNH BÁO :
1-Cơ thể thiếu đường trở thành bệnh Hypoglycémie rất nguy hiểm gây ra nhiều bệnh nan y và làm chết người trong âm thầm
Tây y đôi khi cực đoan, hù dọa những bệnh nhân béo phì nguyên nhân do đường-huyết cao hyperglycemie, tích tụ trong mỡ, tạo ra mỡ lỏng là cholesterol, và mỡ đặc là Triglyceride có nguy cơ bệnh tim mạch, làm cho những người Việt Nam chúng ta, đa phần là những người gầy ốm nhiều hơn những người mập vì thiếu đường, bị ảnh hưởng những thông tin hù dọa làm cho sợ đường và kiêng đường lại gây ra bệnh thiếu đường Hypoglycemie làm mất sức do thiếu năng lượng đường chuyển hóa nuôi tế bào và là nguyên nhân tạo ra nhiều cái chết rơi vào hôn mê trong giấc ngủ ban đêm, sáng không tỉnh dậy hồn lìa khỏi xác âm thầm lặng lẽ mà không ai biết là hậu quả của bệnh thiếu đường, đường tụt thấp đến mức chết 50mg/dL về ban đêm. Nếu ban ngày bệnh nhân thấy mệt thì mọi người biết sẽ có thể cứu tỉnh lại bằng cách cho uống 3 thìa đường cát vàng với nước nóng ấm được.
2-Dưới đây là những hậu quả của bệnh thiếu đường gây ra nhiều bệnh nan y và cách chữa theo tây y.
Tây y hiện nay cũng đã lưu ý đến hậu quả của bệnh đường-huyết thấp (hypoglycémie), và cũng đã có những bác sĩ chuyên môn điều trị bệnh này, nhưng không được phổ biến rộng rãi, nên các bác sĩ gia đình thường không đề cập đến cách chữa này, chỉ thường khuyên những người dùng thuốc trị tiểu đường lúc nào cũng phải đem theo kẹo phòng khi đường-huyết tụt thấp, chứ chưa nghiên cứu sự nguy hiểm tai hại của bệnh đường-huyết thấp gây ra tử vong âm thầm mà tây y tìm không ra do nguyên nhân này ở ngay trước mắt.
Tây y định nghĩa đường huyết-thấp dưới 70mg/dL=4.5mmol/l, HbA1c =4.5%
B-DẤU HIỆU CỦA BỆNH THIẾU ĐƯỜNG :
1-Dấu hiệu bệnh báo trước :
Lú lẫn, hoa mắt, cảm thấy bủn rủn yếu sức cầm 1 vật không vững, đói bụng, nhức đầu, bực tức cáu gắt, tim đập nhanh và mạnh, da tái nhợt, đổ mồ hôi, run tay chân, bồi hồi lo lắng, nhịp tim nhanh
Khi có những dấu hiệu này, mà không được chữa trị thì bệnh nặng hơn có thêm những dấu hiệu khác nghiêm trọng hơn như :
Kém tập trung, ý thức và hành động kém phối hợp, tê miệng và lưỡi, thoát khí, người xanh xao, chân tay vô lực run rẫy, hay té ngã, cầm một vật không chắc hay đánh đổ vỡ, vô thức mất trí nhớ, mắt mù dần, hay bị ác mộng sợ hãi và hôn mê bất tỉnh có thể lịm dần mà chết trong giấc ngủ, trường hợp chết trong giấc ngủ rất nhiều đều do nguyên nhân đường-huyết đã tụt thấp mà theo thói quen vẫn phải uống thuốc hạ đường để bị chết oan uổng mà không ai khám phá ra nguyên nhân này.
Hiệp hội tiểu đường Mỹ định nghĩa hạ đường huyết khi lượng đường trong máu thấp bất thường. Các dấu hiệu và triệu chứng của hạ đường huyết, theo ADA, thường đến đột ngột có thể được gọi là sốc insulin. Các triệu chứng bao gồm cảm thấy đói, run rẩy, lo âu, ớn lạnh, đổ mồ hôi, lú lẫn, mê sảng, tim đập nhanh, mệt mỏi, hoa mắt chóng mặt, suy giảm thị lực, buồn ngủ, rối loạn nhịp tim khi nhanh khi chậm, mặt không tươi sáng mà xanh xao, thần kinh dễ bị kích thích run rẩy co giật, buồn nôn. Nếu thiếu đường nặng hơn, chân tay mệt mỏi yếu, run giật thường xuyên trở thành bệnh Parkinson, làm mất trí nhớ, có thể trở thành vô thức, và đôi khi có thể dẫn đến hôn mê, bất tỉnh.
2-Nguyên nhân :
Nguyên nhân gây hạ đường-huyết do một số loại thuốc như aspirin, uống nhiều rượu, nước chanh, canh chua, khổ qua, thuốc chữa tiểu đường làm hạ đường, vận động nặng xuất mồ hôi hay như đua xe đạp, chạy Marathon, làm tim đạp nhanh, mạnh…hoặc do những loại thực phẩm hay chế độ ăn kiêng khem nhất định như ăn gạo lức muối mè, kiêng ăn ngọt vì sợ bị bệnh tiểu đường…một yếu tố quan trọng khác do ăn uống không điều độ làm rối loạn chức năng của gan thận làm sản xuất dư thừa insulin làm hạ đường-huyết. Những bệnh nhân phải tiêm insulin quá nhiều làm hạ đường-huyết. Do kiêng sợ đường-huyết cao, vừa dùng thuốc hạ đường vừa bỏ bữa nhịn ăn hay ăn ít làm cơ thể thiếu đường trong máu, lỗi này do tây y hạ tiêu chuẩn đường huyết, do giới trí thức còn mê ngủ hùa theo truyền thông tiếp tay hù dọa gây nỗi sợ hãi về nguy cơ của đường, trong khi đó ở các xứ có nhiều đường mía, các lò đường, các nơi bán nước mía, từ xưa đến nay chúng ta thử làm một cuộc diều tra thống kê xem những người này và những người đường-huyết thấp xem ai bị biến chứng làm hư tim, gan thận, hay mù mắt nhiều hơn ?
Những người như chúng ta không bị bệnh tiểu đường, hiện nay chiếm đa số vì sợ đường và kiêng đường trong bữa ăn hàng ngày, lại không biết rằng insulin do tụy tạng tiết ra hàng ngày dư thừa làm đường trong máu bị tụt thấp làm rối loạn nội tiết của tuyến thượng thận nên cũng làm suy thận phải lọc thận, đó là lý do những người dùng thuốc trị tiểu đường lâu dài cũng trở thành bệnh đường huyết thấp cũng làm rối loạn nội tiết của chức năng thận mà phải bị lọc thận.
Chúng ta cũng biết rằng tập thể dục hay làm việc nặng xuất mồ hôi làm tăng chức năng chuyển hóa trong cơ thể tiết ra nhiều lượng insulin gây ra bệnh hạ đường-huyết nếu chúng ta không ăn đường bổ sung năng lượng cho cơ thể, thì phản ứng xảy ra là khi đang tập sẽ bị té xỉu hôn mê do cơ thể mất đường làm suy tim nếu cơ thể thiếu đường, do đó những nhà vận đõng thể dục thể thao rất cần đường để nuôi cơ bắp, cơ tim để có sức dẻo dai, duy trì cơ thể khỏe mạnh, vì sau khi tập lượng đường trong máu còn rất ít, nên rất nguy hiểm cho những nhà trí thức còn mê ngủ vừa kiêng đường vừa ham tập thể dục như chạy bộ, đi bộ, đạp xe, đánh cầu..mà không thích ăn ngọt, sợ ngọt..sau khi tập thể dục xong rồi vào tắm xông hơi sauna làm xuất thêm mồ hôi, tụt thấp đường thình lình gây choáng váng xây xẩm bủn rủn chân tay bỗng nhiên đột quỵ té ngã hôn mê, còn trường hợp vừa tập thể dục, mà không dùng đường bổ sung năng lượng cũng làm đường trong máu mất dần, thiếu dần cũng vẫn bị suy thận, suy tim do bệnh thiếu đường-huyết cũng nguy hiểm như người bệnh đường huyết-cao do uống thuốc hạ đường suốt đời tây y không cho ngưng thuốc cả hai trở thành bệnh đường huyết thấp.
Cuối cùng cả hai loại bệnh nhân có bệnh tiểu đường và không có bệnh tiểu đường đều bị giảm lượng đường trong máu và cũng có những biến chứng của bệnh thiếu đường giống nhau.
Dấu hiệu của bệnh hạ đường huyết cũng rất giống triệu chứng của các bệnh khác không liên quan đến bệnh tiểu đường làm cho các bác sĩ khó chẩn đoán tìm không ra nguyên nhân bệnh, khi không tìm ra nguyên nhân bệnh qua chụp scan, MRI, thử máu, thì phải nghi ngay đến nguyên nhân là đường huyết thấp đã bị bỏ qua vì tưởng không liên quan, và cho rằng nếu có liên quan thì thuốc trị tiểu đường cũng phải uống suốt đời không thể cho ngưng thuốc, đó là một tai hại cho sức khỏe bệnh nhân do hệ thống y tế ràng buộc thời nay.
Chúng ta cần phải có trí tuệ, không để vô minh che lấp, tự mình hại mình giao phó sự chăm sóc sức khỏe của mình cho hệ thống y+dược+bảo hiểm và còn vô minh tiếp tay với truyền thông y tế để hù dọa người khác.
Đường được xem như nhiên liệu hoạt động của tế bào, các bác sĩ chuyên khoa chữa trị bệnh đường huyết thấp khuyên rằng, lúc nào đường huyết trong cơ thể phải giữ tối thiểu an toàn trong khoảng 60mg/dL-120mg/dL= 4.0-7.0mmol/l, và phải ăn uống đều đặn không được nhịn ăn sẽ làm mất đường trong cơ thể xuống thấp dưới 60mg, thậm chí 50mg/dL làm tim ngưng đập rơi vào hôn mê gây tử vong.
Như vậy tây y quy định tiêu chuẩn của người mắc bệnh đường huyết thấp là dưới 120mg/dL=7.0mmol/l, phải giữ ở mức dưới 7.0mmo/l là an toàn, thì ngược lại truyền thông y tế đã lấn sân sang mức đường thấp, trên 6.2mmo/l là bị bệnh đường-huyết cao, chiếm thêm số bệnh nhân phải uống thuốc trị tiểu đường ở mức này chiếm đa số cũng thu được lợi nhuận của hàng trăm triệu người lọt vào lưới này.
PHẦN IV :
Tôi là Nguyễn Văn Sỹ có 15 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thiết kế, thi công đồ nội thất; với niềm đam mê và yêu nghề tôi đã tạo ra những thiết kếtuyệt vời trong phòng khách, phòng bếp, phòng ngủ, sân vườn… Ngoài ra với khả năng nghiên cứu, tìm tòi học hỏi các kiến thức đời sống xã hội và sự kiện, tôi đã đưa ra những kiến thức bổ ích tại website nhaxinhplaza.vn. Hy vọng những kiến thức mà tôi chia sẻ này sẽ giúp ích cho bạn!