Tầm long điểm huyệt [Địa Lý Tả Ao Bí Thư Đại Toàn]

Tả Ao địa lý toàn thư – Dịch giả: Cao Trung

Lời tựa

Quý vị cầm nơi tay đây là tập Địa Lý Gia Truyền Bí Thư Đại Toàn – tập này là tập thứ nhất trong tài liệu gia truyền của dòng họ Tả Ao mà tên tổng hợp của nó là Tả Ao Địa Lý Toàn Thư.

Thưa quý vị!Tài liệu quý giá nhất về khoa Địa Lý của người Việt Nam là Tả Ao Địa Lý Toàn Thư đã có trên 400 năm nay vẫn được các cụ giữ kín dùng làm gia bảo riêng cho dòng họ nhà mình. Làng Địa Lý Việt Nam ở ngoài Bắc di cư vào Nam năm 1954, không có quý vị nào mang theo được, dù là một phần, tài liệu quý giá này. Sau nhiều năm tìm kiếm, may thay lại kiếm được nó; không phải là do các cụ mang vào khi di cư năm 1954, mà là do cụ Huyện Mười ở Tăng Nhân Phú có từ năm 1914, khi gia đình cụ di cư vào Nam thời đó.

Dĩ nhiên làng Địa Lý lại xin sao, và cụ Huyện Mười cũng rộng lượng cho phép. Do đó mỗi thầy Địa Lý di cư đều có một bản. Cao Trung tôi, may thay cũng được dự phần. Các vị Địa Lý Gia khác khi có sách này thì thường cất vào tủ và lâu lâu giở ra xem qua rồi lại cất đi.

Riêng chúng tôi, tài không có bao nhiêu, nhưng mộng lại quá lớn. Chúng tôi quyết dịch và giải thích bộ sách này để dành lại cho hậu thế một tài liệu quý báu đang sắp bị thất truyền. Trên 10 năm làm việc không ngừng, tham khảo với hàng trăm cụ Địa Lý dù quen hay lạ, nếu cụ nào cho phép là tôi tới và gặp. Sách Địa Lý nào cũng mua, sao và đọc.

Nhờ rộng đường tham khảo nên năm 1975 mới xong. Mới vừa hoàn tất xong phần dịch thuật chưa kịp san định, giải thích thêm, hoặc phân chia tiết mục, thì phải di cư.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi được biết trước, được xuất ngoại, có một tiếng đồng hồ nên bỏ hết cả tài sản lại nhưng cố mang theo bản thảo Bộ Tả Ao Địa Lý Toàn Thư, một đứa con tinh thần, một hoài bão vĩ đại, một giấc mộng lớn mà tôi đã cưu mang, chăm sóc ngoài 10 năm cũng chỉ mong bộ sách này được để lại cho đời sau khỏi thất truyền mà thôi. Ước mong giản dị đó đã trải trên 10 năm ở Việt Nam và tiếp theo là trên 10 năm nữa ở Hoa Kỳ.

Giờ đây tập thứ nhất của Tả Ao Địa Lý Toàn Thư mới đến tay quý vị. Thật quá trễ nhưng vì khoa Địa Lý đã khó mà chúng tôi lại muốn nó hết sức toàn vẹn trước khi đem in.

Tập thứ nhất này lấy tên là:

Địa Lý Tả Ao Bí Thư Đại Toàn

Và tập kế tiếp là:

Địa Lý Tả Ao Vi Sư Pháp

Sau đó còn độ 4 – 5 tập nữa mới hoàn tất toàn bộ Địa Lý của dòng họ Tả Ao.

Ở trong tài liệu của cụ Tả Ao dịch mới đây cũng nói đến nó, mà nói một cách hết sức mơ hồ thật ra nó là phần quan trọng nhất của khoa Địa Lý. Chúng tôi biết đến 9 phần 10 Địa Lý Gia không nắm vững 3 phần quan trọng này. Do đó chúng tôi phải cố gắng sắp xếp lại cho thật minh bạch ba phần này trước khi các cụ học Địa Lý phần khẩu thụ tâm truyền mới nắm vững nó mà ngày nay trên bộ sách này nhờ ba phụ lục đặc biệt này quý vị nắm vững và biết thật chính xác nó.

  1. Phụ lục lò Bát Đại Hoàng Tuyền
  2. Phụ lục thứ hai là Long Thượng Bát Sát
  3. Phụ lục thứ ba là Thủy Pháp.

Phần Thủy Pháp trong quyển này gồm 48 trang đã là ngắn gọn nhưng chúng tôi lại đã thu gọn vào một Biểu Nhất Lãm tô màu và bọc plastic – Biểu Nhất Lãm Thủy Pháp này làm bằng tay có 2 mặt – mặt trước là Biểu Nhất Lãm Thủy Pháp và mặt sau là La Kinh có chú thêm chữ Việt thường dùng trong khoa Địa lý. Chỉ cần đặt một cái kim chỉ nam vào giữa là ta đã có La Kinh đầy đủ và đặt kim chỉ nam vào giữa mặt trước ta đã có Biểu Nhất Lãm Thủy Pháp mà có sách Tàu phải viết đến 500 trang mới hết.

Mong rằng với sự cố gắng trình bày tập sách này sẽ giúp quý vị nhiều về khoa Địa lý.

CAO TRUNG

CHƯƠNG I. TẦM LONG TRÓC MẠCH

A. HƯỚNG DẪN PHẦN TẦM LONG TRÓC MẠCH

Tầm long của đất kết gọi là Tầm Long Tróc Mạch. Từ gốc là Tổ sơn long chia ra đi mọi nơi làm đất kết. Từ khởi thủy của long mạch là tổ sơn đến kết cuộc là đất kết. Khúc giữa là hành long.

Một thế long đi khởi từ tổ sơn, hành long có khi gần và có khi xa cả trăm, ngàn dặm mới đến đất kết. Long đi phải có nước đi theo và khi vào kết thì nước đó lại đổ vào minh đường.

Tổ sơn có nhiều hình dạng, nhìn tổ sơn có thể biết sau long đó sẽ hùng dũng hay suy nhược. Còn hành long thì chính long là cán long (cành lớn) và bành long là chi long (cành nhỏ).

so do long mach

Long đi có thể thuận theo chiều nước chảy, có thể nghịch lại chiều nước chảy, và cũng có thể quay ngang xa chiều nước chảy. Long đi thuận theo nước chảy gọi thuận long. Long đi ngược chiều nước chảy gọi là hồi long và đi ngang chiều nước chảy gọi là hoành long.

Xem thêm: Khái quát hệ thống long mạch Việt Nam

B. TẦM LONG TRÓC MẠCH

Câu 1: Tiên vấn tổ tôn, tổ giả, đột khởi nhất sơn vi tổ, phân hành thiên chi vạn điệp, như Côn Lôn sơn đột khởi vi tổ sơn, thị dã.

Tôn giả, ly tổ biệt khởi nhất sơn vi tôn, phân hành đông ngưng tay lũng như Vân Lĩnh, Đan sơn giáng nam thị dã

Dịch

Trước tiên phải hỏi đến tổ tôn – Tổ là một núi đột khởi lên, rồi chia ra làm ngàn vạn chi nhánh – Như Côn Lôn sơn một mình cao vọt lên là tổ sơn vậy. Tôn là tự rời khỏi tổ sơn rồi cũng lại khởi lên một núi riêng biệt, phân hoành ra phương đông Ngung, tây Lũng xuống Nam phương Vân Lĩnh sơn, Đan sơn vậy.

Câu 2: Tổ hữu thủy tổ, thiếu tổ, tiên nhận thủy tổ, hà hữu hình tượng.

Dịch

Tổ có thủy tổ và thiếu tổ. Trước hết phải nhận rõ hình tượng gì của nó.

Câu 3: Hình hữu hoa cái, tam thai, tượng hữu lâu đài, bảo điện, hoặc song phong tinh khởi, hoặc hữu mã yên cáo trục, trước hình kỳ lân, phương hoàng sơn thế, thượng tự, hạ tự, vương tự, nhân tự, thiên tự, ngũ phẩm bất đồng – Kim tinh, mộc tinh, hỏa tinh, thổ tinh, ngũ hành hữu dị, hoặc như vân lôi nhi khởi, hoặc như qua đằng nhi lai, hoặc như thương như khố, hoặc như cổ như kỳ. Nhược kiến tổ tông tủng bạt, nhất định tử tôn tranh hùng.

Dịch

Về hình thì có Hoa Cái – Tam Thai. Về tượng thì lâu đài bảo điện. Cũng có khi hai ngọn vươn lên giống như cánh chim. Hình có thể giống như yên ngựa cáo trục, hình kỳ lân, phụng hoàng hoặc hình chữ thượng, chữ hạ, chữ vương, chữ nhân, chữ thiên năm phẩm khác nhau.

Kim tinh, hỏa tinh, mộc tinh, thổ tinh… năm hành phân biệt. Hoặc như mây sấm dâng lên, hoặc như giây dưa man bò lại, hoặc như kho tàng hoặc như cờ trống.

Nếu thấy tổ tôn cao vút chắc chắn con cháu sẽ hùng cường.

Câu 4: Tổ hữu vạn hình yếu dương suy lực, hồi nhi luận, tiên quan kỳ tổ tông khởi, thứ kỳ chi cán; cán giả, chính mạch chi sở hành, chi giả bàng chi, chí sở khứ, cán giả, tùy tiết nhi phát, chi giả nhất đại nhi suy, tiên luận sơn, hậu luận thủy.

Dịch

Vì tổ sơn có hàng vạn hình trạng, cần phải dùng mục lực mà suy luận. Trước hết hãy xem tổ tông rồi xem đến chi cán – Cán (thân, cây) là đường đi của chính mạch. Chi (cành cây) là lối đi của hàng chi.

Đại để về cán thì mỗi đốt một đời – Còn chi thì chỉ có một đời phát rồi suy.

Trước hết bàn đến sơn, sau mới bàn đến thủy.

Câu 5: Hoặc trường giang, trường khê hoặc đại hồ đại trì, duyên khê nhi chí, phát trì nhi lai, trường thanh khuất khúc vi quý, khí thiển bạc ư trọc, trực lưu vi tiện cách.

Dịch

Hoặc sông dài suối dài, hoặc hồ rộng ao rộng. Mạch theo ven sông ven suối đến. Khởi từ hồ ao lại. Nước trong trẻo đi khuất khúc là quý khí, còn nước u trọc, chạy thẳng là tiện cách.

Câu 6: Đăng sơn tầm tổ tông, đáo xứ vấn thủy khẩu.

Dịch

Lên núi để tìm tổ tông, đến huyệt trường phải kiếm thủy khẩu.

Câu 7: Cứ tổ tông nhi mạch tầm lạc, vấn thủy khẩu nhi định lai long – Thủy khẩu phóng Nam, mạch tầm Bắc. Thủy khẩu quy Đông mạch vọng Tây.

Dịch

Cứ theo tổ tông tìm mạch lạc, hỏi thủy khẩu mà định lai long, Thủy khẩu phóng Nam thì long mạch từ Bắc đến. Thủy ra ở phía Đông thì Long mạch kiếm tìm ở phía Tây.

Câu 8: Dục tường quan giả, tiên khán thủy, hậu khán sơn.

Dịch

– Dục cấp quan giả, vị khán sơn, tiên khán thủy.

Muốn cho xem tường tận, thì trước phải xem thủy, sau mới xem đến sơn. Còn muốn xem vội thì ngược lại, ta xem sơn trước, sau mới xem đến thủy.

Câu 9: Mạch hữu liên sơn nhi hạ, hữu độ giang nhi lai, hoặc mã đề nhi hành, hoặc bàng hồng nhi khởi.

Dịch

Mạch có khi đi liền liền, từ núi cao chạy xuống lại có khi mạch qua sông mà lại, cũng có khi mạch đi lỗ chỗ như vết chân ngựa, hoặc có lúc lặn qua ruộng rồi mới nổi lên.

Câu 10: Thiết thiết tường kỳ bát tự thủy phân, khẩu hiện kỳ lưỡng chi, sơn dẫn hữu thuận thế, nghịch thế, hữu hồi long, hoành long.

Dịch

Nhưng trước hết phải tìm long xuất tổ đi ra phải có “bát tự thủy phân” (2 bên có 2 giòng nước). Long đi có thể đi thuận theo dòng nước, từ ngọn nước đi xuôi (thuận long) và cũng có thể đi nghịch với chiều xuôi của dòng nước (nghịch long – hồi long), hoặc bỏ dòng nước mà quay ngang đi xa xa (hoành long).

Câu 11: Thuận giả, cầu kỳ nghịch, nghịch giả cầu kỳ thuận, thuận nghịch cầu kỳ chứng tá, hồi hoành cầu kỳ thác lạc.

Dịch

Long đi thuận phải tìm nghịch, long đi nghịch phải tìm thuận – Thuận nghịch phải tìm chứng tá – Muốn biết hồi hoành ta tìm thác lạc.

Câu 12: Địa thế bản tự Bắc chí Nam, kiến kỳ nghịch hành vi quý

Trên nguyên tắc, long đi thuận là từ Bắc xuống Nam (cũng có khi từ Tây Bắc xuống Đông Nam) – Nếu long đi nghịch lại “thế thuận” của long quý.

Câu 13: Thủy thế bản Đông quy, bối tây kiến kỳ khúc khuất vi kỳ.

Dịch

Cũng trên nguyên tắc thì thủy chạy từ Tây sang Đông, (ở Trung Quốc) cũng có khi từ Tây Bắc xuống Đông Nam (ở Việt Nam) nếu sau lưng ở phía Tây mà thấy nước chảy khuất khúc là nước hạ (thủy tốt).

Câu 14: Đại tiểu nhất đốn khởi thành quách vi đại địa. Tiểu hình thế bạc, đơn vị tiểu địa

Dịch

Lớn nhỏ núi cũng chỉ khi đốn khi khởi, nhưng nếu có thành quách bao vây thì lại đại địa. Còn nếu thấy núi nhỏ bé, thế đơn côi bạc mỏng là tiểu địa.

Câu 15: Liên sơn tầm kỳ phiên thân.

Hạ sa quan kỳ hồi đầu

Dịch

Nếu thấy dãy núi liền liền ta tìm chỗ nó trở mình.

Nếu thấy núi soải xuống thấp ta xem chỗ nó quay đầu.

Câu 16: Đại địa giả, tầm yêu, lý, hạc.

Tiểu địa giả, tầm đầu khí thụ.

Dịch

Nếu là đại địa ta tìm chỗ huyệt tọa lạc trên lưng.

Nếu là tiểu địa ta tìm chỗ thụ khí ở đầu.

Câu 17: Tam chi tề hành đoản giả vi chân

Lưỡng mạch tịnh hành, nghịch giả vi quý.

Dịch

Nếu thấy ba chi cùng đi thì chi nào ngắn nhất là thật. Nếu thấy hai mạch cùng đi, thì mạch nào quay ngược lại là quý.

Câu 18: Thuận giả, tầm kỳ chính mạch

Kỵ giả tầm kỳ tích

Dịch

Thế long thuận ta tìm chính mạch.

Thế kỵ ta tìm sống lưng.

Câu 19: Uyển chuyển giả, tầm trực

Chân ngạnh giả, vật thứ

Dịch

Mạch đi uyển chuyển ta tìm chỗ ngay ngắn.

Mạch đi thô ngạnh ta không dừng.

Câu 20: Mạch hành như qua đằng, đa hữu mạch.

Dịch

Mạch đi như dây dưa (sinh động khi quay sang phải khi quay sang trái) là có nhiều chỗ đi đến đất kết.

Câu 21: Như thảo vĩ thiếu chân, bác long hoán cốt tầm lão long sinh nộn.

Dịch

Mạch đi lờ mờ như vệt đuôi rắn luồn trong cỏ là hình tích long đang “bác long hoán cốt” (chuyển từ hùng dũng sang nhu hòa) ta tìm xem lão long sinh ra long trẻ, long non tơ (rất tốt).

Câu 22: Nhược kiến nhất trùng bảo khỏe, nhất trùng khai, đích hữu công hầu tại thử gian.

Nhất sơn loạn bảo, nhất sơn cố, đích hữu công khanh cư thử trú.

Dịch

Nếu thấy thế núi:

– Một lần bao bọc, một lần mở ra là đích thực có đất công hầu tại chỗ này.

– Lại thấy một núi vòng ôm, một núi ngoảnh lại cũng là đích thực có đất rộng công khanh ở nơi này.

Câu 23: Bình điền bình địa khởi sơn lôi, sơn túc hữu huyệt tại thử gian.

Bình điền bình địa khởi thạch đa, đa sa hữu huyệt đa cát khánh.

Dịch

Nơi bình điền bình địa mà thấy có núi cao nổi lên thì chân núi hay có huyệt. Cũng nơi bình điền bình địa mà thấy nổi lên cát đá, thì hay có huyệt tốt.

Câu 24: Chúng sơn cao tầm đê

Chúng sơn đê tầm cao.

Chung quanh nhiều núi cao ta tìm huyệt ở chỗ thấp.

Chung quanh đều thấp ta tìm huyệt ở chỗ cao.

Câu 25: Thập trường nhất đoản giả vi chân.

Thập đoản nhất trường giả vi chủ.

Dịch

Mười cái dài có một cái ngắn thì cái ngắn là thật.

Mười cái ngắn có một cái dài thì cái dài làm chủ.

Câu 26: Bình địa tầm hạc tất, phong yêu, đại phụ quan toán sà hôi.

Dịch

Nơi bình địa ta tìm chỗ gối hạc lưng ong, nơi gò lớn ta tìm vết mạch nổi lên như rắn bò trên cỏ.

Câu 27: Duyên khúc mạch nhận kỳ châu.

Chân mạch tầm kỳ khúc.

Dịch

Mạch quanh co ta tìm chỗ thực.

Mạch thực ta tìm chỗ quanh co.

Câu 28: Tầm địa chi pháp, tiên vấn tổ tông, khước tòng chi mạch, khán hành tung tích chân long tận xứ, kham vi dụng đích. Hậu long tiên, mạc kiến trùng trùng đốn khởi, tiền nghênh tống, hậu nghinh, phong bất xuy, mạch bất đoạn, chúng thủy giao hợp, nội vi thành, ngoại vi quách, thủy khẩu quan lan – Thử đại địa giả.

Dịch

Phàm tìm đất trước hết hỏi tổ tông, rồi lại từ đó xem các chi nhánh. Coi xem tung tích chân long đi đến chỗ nào là cùng xứ, đáng dùng được.

Dịch

Như phía hậu long, thấy có màn trướng trùng trùng đốn khởi – Đằng trước có đón, đằng sau có đưa – Lại có chỗ gió không thổi suốt tới (tàng phong mới tụ khí) – và mạch không bị đứt đoạn – lại thêm có nhiều thủy giao hội – mà bên trong có thành, bên ngoài có quách – lại thêm có thủy khẩu rành mạch. Đấy chính là đại địa vận vậy.

Câu 29: Nhược kiến nhất chi sơn, nhất phái thủy, đơn hổ, đơn long, đơn sơn dẫn, đơn thủy sở tòng, tiểu địa giả.

Tầm long bất dị, điểm huyệt vưu nan.

Dịch

Còn thấy có một chi sơn, một phái thủy, một đơn long, một đơn hổ, một núi hướng dẫn, một nước chảy theo, chỉ là tiểu địa thôi.

Tầm long không dễ, mà điểm huyệt càng khó vậy.

CHƯƠNG II. ĐIỂM HUYỆT

A. HƯỚNG DẪN PHẦN ĐIỂM HUYỆT

Điểm huyệt là phép tìm ra chỗ đúng của huyệt trường. Cũng theo phép quân bình âm dương, cao thấp mà điểm nơi huyệt trường có hình: Oa hoặc Kiềm hoặc Nhũ hoặc Đột. Thường mạch nơi sơn cước ta dùng Oa và Kiềm, mạch nơi bình dương (đất bằng) ta dùng Nhũ, Đột.

Mạch sơn cước chỗ đầu núi cúi xuống gặp nước hay gặp đất bằng mà kết thì hay có hình oa hay hình kiềm. Còn đồng bằng mà nổi lên kết thì hay có nhũ và đột. Đột là cao lên như cái gò nhỏ, còn nhũ là cao lên và dài như cái vú quả mướp.

Điểm huyệt ở huyệt hình Kim, khác điểm ở hình Mộc, khác hình Thủy, khác hình Hỏa, khác hình Thổ. Ngoài khi điểm huyệt cũng nên chú trọng đến những ngấn nước ở hai bên huyệt ta gọi là hà tu thủy. Ta cũng cần chú trọng đến những bông cỏ xanh tươi hoặc những mô cao thấp một chút. Huyệt điểm cao quá thì sát, thấp quá thì yếu. Ngoài ra, tay long, tay hổ dài ngắn cũng ảnh hưởng đến phép điểm huyệt, án cao, thấp cũng thế.

B. ĐIỂM HUYỆT

Câu 1: Sơn cốc tựu kỳ oa túc

Bình dương tựu kỳ đột lĩnh.

Nơi sơn cốc huyệt ở noi oa thấp.

Vũng bình dương tuyệt ở chỗ đột kết.

Luận câu 1: Sơn cao úy phong xuy, thực lăng cố cổ tầm oa xứ, sơn túc điểm chi, xứ phong bất xuy giả. Tha sơn cao tụ khí thái khí giả, như nhân chi nguyên khí, do ngạnh tác bất chung đa, tắc âm nhu nan tầm oa xứ, cập sơn túc sử khí chung bất phong xuy giả, – bình dương đa bạc địa, khí tụ ư cao hậu đột lĩnh chi xứ, cố tầm đột táng sử chi, khí bất bạc giả.

Nơi núi cao ta sợ gió thổi nên phải tìm chỗ vững thấy (oa) nơi chân núi mà điểm, khiến cho gió không thổi tới được.

Bởi núi cao mà tụ khí thì khí quá mạnh, khí ở đây như nguyên khí của người nên chỗ cương ngạnh (chỗ cao) có gió thổi thì khí không tụ, ta phải tìm chỗ ôn nhu ở chỗ khai oa ở chân núi để cho khí chung tụ (không bị gió thổi tới).

Còn nơi bình dương khí bạc, ta lại phải tìm chỗ khí là tránh chỗ khí đơn bạc.

Câu 2: Chứng tá vô như vượng tướng.

Cao đê bất thất tụ chung.

Nhiều chứng tá không bằng chứng tá vượng tướng.

Đất cao thấp, không thể để mất chỗ tụ chung.

Luận câu 2: Phàm huyệt tả hữu thượng hạ, chứng tá quân bình, thế đại nan y thừa kỳ vượng tướng. Mạch thừa kỳ Bính Tý, Canh Tý chi loại, nhi tỵ cô hư chi khí. Hoặc cao hoặc đê, nan y giả dã, tất thừa kỳ chung tụ chi khí, nhi thiên chi chung tụ giả – viên hậu phì nhũ, thổ bao chung tú, thảo mộc thanh tú dị giả. Nhược chung tụ câu đại nan cứ giã. Thượng lập chuẩn tiêu ư mạch ưng đáo xứ khởi huyệt xứ, hạ lập chuẩn tiêu ư nậu tận, thủy hợp lưu xứ.

Thượng khởi hộ nhi hạ, hạ khởi bộ nhi thượng, phàm bộ chi xích thốn, hợp đoản thiểu.

Hạ kế: Kiên, Trừ, Mãn, Bình, Định, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thâu, Khai, Bế.

Thượng kế: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quý.

Nhi trực ngộ xuất xứ

a. Hạ đắc: Bình, Định, Thành, Khai.

b. Thượng đắc: Giáp, Ất, Canh, Tân

Tiết điểm chi

Nhược huyệt như đích hữu chứng tá, an thập đạo táng.

a. Ngộ Kiến, Phá, Trừ, Mậu, Kỷ, Quý: Tiên sát tam nhân, hậu phát.

b. Ngộ Chấp, Bế, Ất, Đinh – Bất phát, hưu kiến đại tai.

c. Ngộ Mãn, Thâu, Bình, Chi.

Phàm huyệt tả hữu trên dưới có chứng tá, quân bình thế rộng lớn, khó mà căn cứ, thì ta phải thừa mạch Vượng, Tướng, ví dụ như mạch nên thừa Bính Tý (nếu là Nhâm Long) Canh Tý (nếu là Tý Long) và tránh khí Cô Hư (Giáp Tý, Mậu Tý, Nhâm Tý).

Còn mạch cao thấp khó mà căn cứ nên phải thừa vào chỗ Khí chung tụ để táng huyệt. Chung tụ là chỗ viên hậu, phì nhu, có sắc thổ tốt đẹp, cỏ cây xanh tươi đó là đất lạ.

Nếu chỗ chung tụ mà rộng thì cũng khó mà căn cứ được, ta lại phải lập tiêu chuẩn.

Lập một tiêu chuẩn ở chỗ khởi huyệt (bên trên).

Lập một tiêu chuẩn ở chỗ khởi lưu (bên dưới). Rồi đi từ phía trên đi xuống, phía dưới đi lên. (Bằng cỡ chân bước ngắn, dãy đều nhau).

Khi bước từ dưới lên đếm (tuần tự đọc): Kiên – Trừ – Mãn – Bình – Định – Chấp – Phá – Nguy – Thành – Thâu – Khai – Bế.

Còn bước từ trên xuống ta đọc: Giáp – Ất – Bính – Đinh – Canh – Tân – Nhâm – Quý.

Mỗi bước một chữ

Khi trên dưới gặp nhau mà:

a. Phía dưới đi lên gặp chữ Bính – Đinh – Thành khai.

b. Phía trên đi xuống gặp chữ Giáp – Ất – Canh – Tân.

Tức là điểm đúng huyệt rồi đó

Còn như huyệt có đủ chứng tá phân minh thì ta chăng dây hình chữ thập (một dây chiều trước sau, và một dây chiều phải trái) để làm đích mà táng.

Lúc táng mà được Kiên, Phá, Trừ, Mậu, Kỷ, Quý thì trước phải bị sát 3 người sau mới phát.

Còn gặp được Chấp, Bế, Ất, Đinh thì không có phát và gặp tai họa dữ dội.

Còn gặp ngay Mãn, Thâu thì bình thường.

Câu 3: Mạch thừa tả hữu, bất câu tả hữu

Địa hữu minh ám, tu biện minh ám.

Mạch nhận tả hữu mà không câu nệ tả hữu.

Đất có minh ám, nên biện biệt minh ám.

Luận câu 3: Kỳ pháp, mạch tòng tả lai, khí chung vu hữu. Mạch tòng hữu lai, khí chung vô tả. Diệc nhiên, địa nhất minh, nhất ám, nhất hư, nhất thực.

a. Minh giả: mạch thùy giáng khai minh, thủy tiểu tiểu vi mang dã.

b. Ám giả: chúng tương hành

c. Hư giả: nhuyễn nhược bạc dã.

d. Thực giả: viên vụng, phi hậu tú khí dã

Tại nơi điểm huyệt, nếu thấy mạch từ tả đến (nhiều khi tả cao, hữu thấp) thì khí chếch sang bên hữu (nên điểm huyệt sang bên phải).

Và nếu thấy mạch từ hữu sang tả (khi hữu cao tả thấp) thì khí tụ chếch sang bên tả (nên điểm huyệt sang bên trái).

Cũng tại nơi điểm huyệt, nếu thấy đất một bên minh, một bên ám, hoặc một bên hư một bên thực, cũng phải biết mà liệu điểm huyệt thì mới trúng nơi khí chung tụ.

a. Minh là mạch rủ xuống, trông thấy rõ.

b. Ám thì lờ mờ khó nhận.

c. Hư là mềm yếu mỏng manh.

d. Thực là quầng tròn và đầy đặn.

Vì vậy nếu thấy đất Minh thì dễ, còn đất Ám, ta phải coi thêm kỹ các chứng ứng như: Long, Hổ, Ám v.v…

Còn đất Thực thì ta chọn chỗ thực mà bỏ chỗ hư – Bởi hư thì khí bạc mà thực thì mới có tú khí.

Câu 4: Cấp lai hoãn thụ, Hoãn lai cấp thụ

Âm lai dương thụ, Dương lai âm thụ

Mạch cấp lại thì chỗ Hoãn là kết. Hoãn lại thì chỗ cấp là kết.

Mạch Âm lại thì chỗ Dương là kết và mạch Dương lại thì chỗ Âm là kết.

Luận câu 4: Địa hữu hoãn hữu cấp, như nhân hữu nhược hữu cường. Cấp giả, cao đại, huyệt tại Kiềm Nhũ. Hoãn giả vi tiểu, đê bạc.

Phàm lai long nhị tam tiết giai hùng, Cấp tựu kỳ Oa Kiềm, sơn túc chi xứ điểm chi.

Sơn cao vi âm, đê giả vi dương. Quần sơn giai cao, tầm kỳ đê xứ nhi điểm.

Chúng sơn giai đê, tầm kỳ cao xứ nhi điểm chi. Diệc cứ âm lai dương thụ chi nghĩa dã.

Mạch có hoãn có cấp, như người ta có nhược có cường. Cấp thì cao lớn: Huyệt tại Kiềm Nhũ. Còn Hoãn thì nhỏ bé, thấp bạc.

Phàm lai long hai ba tiết đều hùng mạnh là Cấp huyệt ở Oa, Kiềm nơi chân núi mà điểm.

Còn sau huyệt mà thấy sơn bằng phẳng, nhuyễn nhược thì phải tìm chỗ đột cao lên ở huyệt trường mà điểm (nơi đột lĩnh).

Sơn cao là Âm, thấp là dương. Đám sơn đều cao ta chọn chỗ thấp mà điểm huyệt.

Các sơn đều thấp, tìm chỗ cao mà điểm huyệt. Đây là căn cứ vào nghĩa câu:

Âm lai dương thụ – Dương lai âm thụ.

Câu 5: Quan mạch tương tiếp, bất sai

Khí mạch kiêmthu, hữu hiệu.

Quan với mạch nối tiếp nhau là đúng phép.

Khí với mạch gồm thu cả mới hữu hiệu.

Luận câu 5: Điểm huyệt chi pháp, sử quan bất ly mạch, mạch bất ly quan, nhược bất sai chi như mãn cư tán dã.

Chính li vi mạch, lưỡng biên vi khí, yếu đắc kiêm thu nhập huyệt, thủy phát phúc hữu hiệu giả dã.

Điểm huyệt là phép tìm chỗ cho quan không xa lìa mạch, mạch không xa lìa quan, phải như vậy mới được kết. Chính giữa là mạch thì hai bên là khí, cần phải cả khí lẫn mạch đều được kiêm thu vào huyệt thì việc phát phúc mới hữu hiệu.

Câu 6: Kim dụng Oa, Mộc dụng Tiết, diệu tại nhẫn suy. Thủy tầm khúc, Thổ tại Giốc, tựu chung linh tại nhỡn kiến.

Huyệt trường hình Kim (tròn) thì huyệt dụng Oa. Hình mộc (dài) thì kiếm chỗ Đốt (mắt) khéo léo ở mắt quan sát.

Hình thủy (hình vòng vèo, méo) thì tìm huyệt ở chỗ Khúc (cong mập).

Hình thổ thì ở nơi góc (nếu có khác mấy góc kia) hoặc ở giữa (nếu 4 góc giống nhau) đó là hình lợi ở mắt nhìn.

Luận câu 6: Kim viên hình, tựu oa nhi oa thủ. Vô oa tựu khai – nhi long, hổ, chủ, khách hữu tình tức tu khai tắc kim oa. Cố viết diệu tại nhãn suy.

Mộc bản cao kỳ tiết, vô tiết tầm ảnh, nhược vô tiết, ảnh, nhi sơn thủy hữu tình, tắc khí qui căn, nghi tác niêm căn (gốc).

Thổ tinh huyệt tại Giốc. Nhước bất minh tắc mạch quán trung, vi chính nghi huyệt tâm.

Thủy tinh nhược, đang tầm khúc xứ – Thủy tùy mạch nhi điểm – Cố viết linh tại nhãn kiến dã.

Kim hình tròn, ta kiếm chỗ vụng (oa) làm huyệt. Nếu không thấy chỗ vụng (oa) thì tìm chỗ Khai hoa (biến thể của oa) mà có long, hổ, chủ, khách hữu tình thi chính chỗ khai hoa này thay thế cho hình Oa (chỗ vụng) làm huyệt cho huyệt trường hình kim. Nên mới nói là khéo léo ở mắt quan sát.

Hình Mộc (dài) thì quý ở chỗ Đốt (mắt của cây). Nếu không thấy đốt (mắt của cây) thì ta tìm cái bóng của Đốt. Trường hợp không có đốt, lại không có cả bóng của đốt nữa, mà thấy sơn thủy hữu tình thì khí mạch tụ ở gốc (căn). Nên điểm sát gốc.

Thổ tinh (huyệt trường vuông hoặc chữ nhật) thì huyệt hay ở vào một góc (góc có hình tích khai huyệt và ngoài có long hổ vòng ôm).

Nếu các góc không có huyệt thì khí mạch đều tụ ở chính giữa. Nó chính là huyệt tâm, trường hợp 4 mặt cao giữa thấp, hoặc 4 mặt bằng mà giữa nổi lên hình Kim thì lại càng đúng.

Thủy tinh thì khí nhu nhược, ta nên tìm ở chỗ cong (phì hậu) mà điểm (phải có chứng ứng như long, hổ, án, sa). Như trên trình bày ta tùy mạch mà điểm, nên mới nói là linh ở mắt nhìn.

Câu 7: Hỏa tinh thập cá cửu không, biến kỳ quý khí đương cầu.

Kỵ long thập cá cửu giả, nhận kỳ thực huyệt vi thủ.

Hỏa tinh thì mười cái có 9 cái không, nếu thấy có quý khí mới nên tìm.

Kỵ long thì mười cái có 9 cái giả, nên tìm chỗ thực huyệt mà lấy.

Luận câu 7: Hỏa bản tiêm đầu vô huyệt, nhược hỏa hình như đầu đại phì, tú khí tắc họa tuyệt ư phì xứ – Kỳ tọa hoành đạp hoành sử bất kiến tiêm đầu hỏa, cố viết chiên hỏa cách. Kỵ long đại địa bất kết ư tận xứ, cố viết kết chi ư nội, tiền hậu giai xung, giáp huyệt; phong bất chí, thử bất sinh, tầm kỳ chính tích, hoặc Oa, Kiềm, Nhũ, Đột. Minh tiền hiển hậu, đương nhận thử chi.

Kỵ hữu, thuận kỵ, đảo kỵ, hoành kỵ.

Thuận kỵ, lai sơn tác huyệt, khứ sơn tác án.

Đảo kỵ giả, khứ sơn tác huyệt lai sơn tác án.

Hoành kỵ, tống sơn tác tuyệt, nhược huyệt vật dụng dã.

Phàm kỵ long, sơn bảo hành thủy do phân, thập cá cửu không dã.

Nhược Long tụ, thủy giao, hữu chân huyệt, phát phúc vĩnh niên giả.

Hình hỏa nhọn đầu vốn không có huyệt. Nếu hỏa hình mà đầu mập lớn, có tú khí thời tọa tuyệt ở chỗ đầu mập. Nhưng dù chọn chỗ đầy mập cũng phải “tọa hoành, đạp hoành” nghĩa là làm sao chỗ ngồi của huyệt không còn nhìn thấy chỗ nhọn đầu của hình hỏa (hình nhọn) được. Phép này gọi là “Tiễn hỏa cách”.

Thế kỵ long (ngồi trên lưng long, còn xa mới tới minh đường) hay ở những ngôi đất lớn. Kỵ long thì huyệt không kết ở nơi tận xứ (gần minh đường) mà kết ở ngay trong (trên lưng) long, và trước sau của nó đều vệ giáp vào huyệt. Phải là chỗ mà gió không thổi tới, nắng không tới. Huyệt ở trên sống lưng long có thể là Oa – Kiềm – Nhũ hoặc Đột nhưng phải là chỗ trước, sau (những chứng ứng) phải minh hiển, rõ rệt.

Nói về kỵ long ta có cách:

1. Thuận kỵ (huyệt nhìn xuôi)

2. Đảo kỵ (huyệt nhìn nghịch)

3. Hoành kỵ (huyệt nhìn ngang)

a. Thuận kỵ thì lai sơn (sơn đến) làm huyệt và khứ sơn (sơn đi) làm án.

b. Đảo kỵ thì khứ sơn (sơn đi) làm huyệt, và lai sơn (sơn đến) làm án.

c. Hoành kỵ thì tống sơn (sơn tiễn) làm huyệt và nghinh sơn làm án.

Tuy nhiên, kỵ long mà thấy huyệt không chính xác thì chớ có dùng.

Phàm kỵ long mà sờn của long còn chạy đi, nước chưa tụ thì mưới cái có đến 9 cái không.

Còn khi thấy chắc chắn long đã đinh, thủy đã giao thì mới là chân huyệt. Sẽ phát phúc vĩnh viễn vậy.

Câu 8: Thổ tinh hữu huyền lăng, cá cá giai thị.

Thổ huyệt hữu triều ảnh, nhất nhất giai chân

Thổ tinh mà có “huyền lăng” thì cái nào cũng phải.

Thổ huyệt mà có “triều ảnh” thì nhất nhất đều trúng.

Luận câu 8: Thổ tinh vi bình, tứ diện thành khởi, tựu trung nhi bất nghi, triều ảnh gia vận chi trung, lưỡng biên vệ huyệt, thiên vũ thủy vọng chi ảnh vimang, hợp ư vận nhi điểm huyệt chi, bất sai huyệt dã.

Thổ tinh bằng phẳng mà 4 phía chung quanh có thành cao lên thì huyệt kết tại chính giữa, không còn hoài nghi gì nữa.

Triều ảnh là ở trong vầng quầng mà hai bên có vệ huyệt, khi trời mưa nhìn thấy ánh nước lờ mờ, hợp với vầng quầng, ta điểm huyệt thì hẳn là đúng huyệt.

Câu 9: Hà tu nhất thể

Giải nhỡn lưỡng đầu

Râu tôm một thể

Mắt cua hai đầu.

Luận câu 9: Hà tu giả, vi thủy vệ huyệt, dị kiến, chí nhược.

– Giải nhỡn, tả hành tắc tả biên minh, hữu biên ám. Tùy án tiền nhi điểm chi dã.

Râu tôm, hà tu là cái vi thủy (thủy nhỏ bé) vệ huyệt dễ nhìn thấy.

Mắt cua (giải nhỡn) thì nếu mạch đi tả biên thì tả biên rõ hữu biên mờ. Trường hợp này thì theo án đằng trước mà điểm huyệt.

Câu 10: Sơn bất hứa ư trực xung

Mạch trực sử ư quán nhĩ.

Sơn không nên đi thẳng đến huyệt.

Mạch trực nên cho vào (tài liệu mờ)

Luận câu 10: Sơn mạch trực nhập, nhi tọa chi vị chi đấu, mạch sát, thả như:

a. Dậu long, tọa Dậu hướng Mão

b. Hợi long, tọa Hợi hướng Tỵ chi loại.

Phạm huyệt trực nhập, tác phân kim, thiên hướng sử mạch quán nhĩ, mạch nhập nhị dã.

Sơn mạch chạy thẳng vào quan là “đấu sát” (đấu mạch bị sát). Ví dụ như:

a. Dậu long mà tọa Dậu hướng Mão.

b. Hợi long mà tọa Hợi hướng Tỵ.

Là mạch xông thẳng vào quan.

Phàm huyệt mà trực nhập thì phân kim phải cho mạch đi xiên (khiến cho mạch không đâm thẳng vào não. Phải cho mạch nhập nhĩ, gọi là mạch vào tai vậy).

Câu 11: Sở quý cầu mạch thảo xà

Sở ái lâm điền bộ ảnh

Đáng quý, mạch như rắn bò trên cỏ

Đáng yêu mạch như bóng hiện trên ruộng

Luận câu 11: Thảo xà mạch, hành như xà nhập dư tất tâm truyền thụ.

Ảnh giả, truyền giốc điền mạch dã.

Mạhc hành bình điền, nhận điều giốc bán thốn vi cao vọng chi, như ảnh tùy thân, khai khẩu minh dịch nhi điểm chi.

Thảo xà là mạch đi nhu rắn bò trên cỏ (hơi gợi lên).

Ta đã được tâm truyền thụ thụ.

Ảnh là mạch truyền góc ruộng. Đó là mạch đi ở bình điền, nhận thấy ở góc ruộng hơi cao lên (độ 1 tấc) trông nó như là bóng theo người. Tìm chỗ khai khẩu, hiện rõ mà điểm.

Câu 12: Tiêm đầu mạc hạ

Thử vĩ hưu thiên

Nhọn đầu đừng có hạ

Đuôi chuột chớ nên rời.

Luận câu 12: Tiêm đầu khí bất tụ, thử vĩ khí bất chung. Phàm hình như tiêm đầu thử vị, tế tiểu nhi điểm khí bất chung dã.

Nhọn đầu khí không tụ, đuôi chuột khí không chung. Phàm mạch bé, hình đầu nhọn, hình đuôi chuột điểm ở chỗ nhọn chỗ nhỏ đó thì không có khí tụ vậy.

Câu 13: Án long tỵ vật thượng ư thần

Táng quy kiên, vật dụng ư sác.

Để ở mũi rồng, thì chớ cho xuống môi.

Táng trên vai rùa thì đừng cho lên mai.

Luận câu 13: Long bản quý khí tại tỵ – Nghi điểm chi Quy bản huyệt tại kiên, vật dụng ư sác dã. Long điểm ư thần, tận khí dã.

Rồng vốn quý ở nơi mũi (nói chung là huyệt ở chỗ khí chung tu nên điểm vào mũi, chớ điểm thấp xuống mồm rồng.

Rùa, nếu huyệt ở vai (nói chung là huyệt ở chỗ khí chung tụ) nên điểm vào vai (chớ điểm cao lên mai rùa).

Như trên, nếu rồng có khi chung tụ ở mũi mà điểm xuống quá thấp là điểm ở chỗ tận khí (không tốt).

Cũng như trên, nếu rùa có khí chung tụ ở vai mà điểm cao lên mai, thì bị sát, không tốt.

Câu 14: Thạch sơn tầm thổ huyệt

Thổ huyệt tầm thạch long.

Núi đã kiếm thổ huyệt

Thổ huyệt tìm thạch long

Luận câu 14: Phàm thạch sơn bản vô huyệt, nhược kiến oa hình, thổ nhuận nghi điểm chi, giác thư vi quý. Nhược vô thạch mạch tụ, tựu hạ ư thổ xứ điểm chi.

Phàm núi đá vốn không có huyệt. Nếu núi đá mà thấy ở chỗ vụng (oa) có đất mềm thì nên chú ý mà điểm huyệt – Thư thái là quý.

Còn như không thấy khí mạch trên núi đá thì ta tìm xuống dưới chỗ có đất mà điểm.

Câu 15: Thạch thượng nghi táng

Thủy để diệc thiên.

Trên núi đá cũng có cách táng.

Dưới nước cũng có cách dời xuống.

Luận câu 15: Thạch giả như nhân chi cốt, phàm cốt ngạnh, vô huyệt, nhược kiến tả hữu, hữu tình, tiền hậu phân minh, tú khí tụ chung, thổ diện giai thạch – Bất nghi phủ định quật chi – Kỳ pháp, trí quan ư thạch thượng, dĩ khách thổ bồi chi – Cao hậu ngũ xích diệt phát phúc dã.

Nhược chí mạch hành hoạt long, hoạt xà, quý sơn sở dẫn, quý thủy sơ tòng, đáo xứ bất biến huyệt, hoặc trì hồ tĩnh thủy bất động, hữu khởi tinh phong, hữu thực, thị thủy để huyệt nghi táng chi.

Đá cũng như xương người, phàm cốt, thì thô ngạnh, không có huyệt, nhưng thấy tả hữu mà hữu tình, trước sau phân minh, có tú khí chung tụ, mà trên mặt đất chỉ thấy có đá không có đất thì ta chớ nên dùng đinh và búa mà đào khoét xuống (làm huyệt). Ta phải dùng phép đặt quan tài trên đá, rồi lấy đất chỗ khác đem đến đắp lên. Đắp cao độ 5 thước (thước ta độ 25cm) cũng phát phúc vậy.

Còn nếu mạch đi hoạt long, hoạt xà, có quý sơn dẫn dắt, quý thủy đi theo, tới chỗ thích ứng mà không thấy huyệt mà thấy nơi đó có nước hồ trong sạch, êm tịnh bất động lại thấy (có chứng ứng) tinh phong khởi lên. Đó là có huyệt chim dưới nước. Ta nên tìm cách táng ở đó.

Câu 16: Phản thủ tắc niêm cao cốt.

Khúc bối tu ỷ tùy đầu.

Đất như bàn tay úp thì cốt lộ lên cao

Đất như khum lưng xuống thì kết huyện ở chỗ khum.

Luận câu 16: Cốt giả sơn chi khởi phong, sơn hành như thủ chi phản, tầm kỳ cốt nhi điểm chi.

Sơn đầu, cốt thủy đầu, tựu ư đầu, huyệt điểm chi.

Cốt là chỗ khởi phong của núi – Nếu thế núi như bàn tay úp, ta tìm chỗ cốt lộ mà điểm.

Xương đầu núi cúi khom xuống, ta tới chỗ đầu núi, tìm huyệt mà điểm.

Câu 17: Hiển đột bất dị ư đột thượng. Minh nhũ bất ly ư nhũ trùng.

Kiềm tác kỳ ỷ – Oa tác kỳ chi.

Hiển đột không rời khỏi “mặt đột”. Minh nhũ không lìa quá “trong nhũ” – Kiềm thời táng “ỷ” (ỷ là chỗ tựa). Oa thời táng “chi” (chỉ là chỗ ngưng).

Luận câu 17: Thế hữu thiên đoan vạn hình, bất quá tứ thế: Oa – Kiềm – Nhũ – Đột.

Thế đất có nghìn vạn đoạn hình, nhưng điểm huyệt chẳng qua 4 thế là: Oa – Kiềm – Nhũ – Đột.

Câu 18: Tả hữu đầu trường, huyệt cư Nam

Tả hữu đầu đoản, huyệt cư Bắc.

Hai bên đầu tả hữu (long, hổ) dài, huyệt ở Nam. Hai bên đầu tả hữu (long, hổ) ngắn, huyệt ở Bắc (gần).

Luận câu 18: Phàm huyệt thí như anh nhi, tả hữu như thế sở cầu. Tả hữu trường tắc nguyệt ngoại của tả hữu đoản tắc huyệt nội trú.

Đại khái huyệt cũng ví như đứa trẻ (được hai tay long hổ ôm bế che đỡ). Tả (long) hữu (hổ) cũng ví như người dìu dắt nó.

Tả hữu (long hổ) dài thì huyệt ở ngoài xa. Tả hữu (long hổ) ngắn thì huyệt ở trong gần.

Lưu ý: Bởi thế núi, nguyên tắc đi từ Bắc xuống nên nói Nm là nói ở xa, nói Bắc là nói ở gần. Và các vị thâm nho kể cũng thâm thật.

Câu 19: Ngoại kháng tầm nội mật

Nội cùng mịch ngoại thư.

Rộng rãi không khoáng thì tìm kín đáo bên trong.

Bức bách chật hẹp thì tìm thênh thang bên ngoài.

Luận câu 19: Phàm huyệt hữu thế, hữu hình, minh đường khoảng khoát tất di, sử ư tiền hữu vi, cao dĩ yểm tâm dã. Nhược nội bức thái quá giả, nghi tựu mịch ư ngoại thư giả điểm chi.

Phàm huyệt có thế, có hình, nếu minh đường rộng rãi, phải rời xa xa, khiến cho đằng trước có chỗ hơi cao để che trước ngực. Nếu bên trong bức bách quá, kiếm chỗ thư thái bên ngoài mà điểm.

Câu 20: Tả động tả tầm

Hữu động hữu tầm.

Bên tả động, tìm huyệt bên tả. Bên hữu động tìm huyệt bên hữu (chỗ động, chỗ trông khang khác là chỗ khai huyệt).

Luận câu 20: Truyền ngôn: thị Mộc, thị Kim, động trung thủ huyệt

Lời truyền rằng: Dù hình Mộc, dù hình Kim, cứ trông chỗ động mà tìm huyệt.

Câu 21: Minh Đường hiệp đê xứ điểm.

Minh Đường khoan cao xứ tầm.

Minh đường hẹp, điểm huyệt chỗ thấp. Minh đường rộng, điểm huyệt cao (chỗ cao mới bao quát được chỗ rộng).

Luận câu 21: Hiệp nhi tọa đê, khoan nhị tọa cao. Giai bất hiểu ư đường tất tùy kỳ thế dã.

Câu 22: Chân lai Ngụy lạc, huyệt kỳ chân

Ngụy lai chân lạc, huyệt kỳ ngụy.

Mạch chân lại, mạch ngụy lạc, huyệt ở mạch chân.

Mạch ngụy lại, mạch chân lạc, huyệt ở mạch ngụy.

Luận câu 22: Mạch hữu chân hữu ngụy, như long hành tam tứ tiết nhi Hợi giao, đáo hữu ngạnh tiết. Tý, Quý hành đáo như hữu minh dịch, diệc tựu Hợi điểm chi.

Mạch có mạch chân mạch ngụy. Nếu long hành ba bốn tiết đến Hợi giao tiếp, có tiết thô ngạnh. Tý quý có nước mạch rõ rệt, cũng theo mạch Hợi đó mà điểm.

Câu 23: Vật ngộ dụng bích lập tàng sơn

Vật ngộ dụng đê điền bạc xứ

Đừng dùng chỗ vách đứng của núi non.

Đừng dùng chỗ bạc nhược của bình dương.

Luận câu 23: Hậu đầu sơn xứ bích lập cận điểm chi tắc sinh hung họa. Phàm đê điền bạc xứ vô huyệt tất bất dụng.

Nếu điểm huyệt gần vách đứng dựng của hậu đầu sơn thì sẽ sinh tai họa. phàm điểm huyệt mà thấy đất ruộng thấp đê bạc của bình dương thì cũng nên tránh.

Câu 24: Bắc thần lãnh thủy bức án vô phương

Hậu đầu chiết mộc, cận huyệt vật dụng

Phía Bắc có lãnh thủy, dù có án bức cũng vô hại.

Nơi hậu đầu có có chiết mộc, gần huyệt ta chớ nên dùng.

Luận câu 24: Phàm huyệt tại bình điền, bình địa, tiền án cao nhất xích, cận ngũ bộ bức huyệt, sát hại, Đan Bắc hướng, bất hại. Nhược kiến nhất sơn hậu hoành án như mộc, cận táng đắc hại trướng.

Phàm huyệt ở nơi bình điền, bình địa mà trước huyệt có án cao một thước, ở gần huyệt năm bộ, sẽ bức huyệt, thì bị sát hại. Song, nếu án cao ở phương Bắc thì không hề chi. Nếu thấy núi vắt ngang đằng sau như hình Mộc mà táng gần, thì hại con trưởng.

Câu 25: Cao vật dụng phong xuy

Đê vật dụng thủy phá

Nơi cao đừng dùng huyệt có gió thổi.

Nơi thấp đừng dùng huyệt bị thủy phá.

Luận câu 25: Cao úy phong xuy, phàm sơn cốc tùy kỳ tàng phong, cố sơn túc điểm chi.

Phàm đê điền vật dụng hậu sơn lưỡng bối cao mãn, hoàn thủy lâm phá hậu đầu, tất tuyệt tự dã.

Huyệt nơi cao phải tránh chỗ gió thổi, phàm huyệt nơi sơn cốc, phải điểm huyệt ở chỗ ít gió (mới tụ được khí). Ta phải kiếm huyệt ở chỗ chân núi mà điểm.

Phàm nơi bình dương (đất thấp) không nên điểm huyệt ở chỗ có hậu sơn mà hai bên huyệt cao đầy, sẽ dễ bị nước tràn phá vào hậu đầu – tất sẽ bị tuyệt tự.

Câu 26: Khai khẩu dụng thị đích

Minh dịch điểm vô sai

Điểm huyệt nơi khai khẩu là đích.

Điểm huyệt chỗ minh dịch không sai.

Luận câu 26: Khai khẩu cứ khẩu nhi điểm – minh cứ dịch nhi điểm – Vận vô nhất thất dã

Thấy khai khẩu cứ chỗ khẩu mà điểm – Thấy dịch cứ chỗ dịch mà điểm, vạn cái không sai một.

Câu 27: Tứ loan kim vật dụng kim

Tứ loan thủy vật dụng thủy

Bốn kim nhạc đừng dùng kim.

Bốn thủy nhạc đừng dùng thủy.

Luận câu 27: Tứ loan kim ư tứ phương, thủy dịch.

Bốn hình kim tròn ở bốn phương, thủy cũng như vậy. Trường hợp này mạch cương (kim) thì cương quá, mạch nhu (thủy) thì nhu quá cũng không có đất kết.

Câu 28: Đại để điểm huyệt chi pháp, cầu kỳ nguyệt chi đắc thế, mạch chi sở quán, khí chi sở quán, khí chi sở chung, dĩ các kỳ dư hỹ.

Đại để phép điểm huyệt:

– Cần tìm chỗ đắc thế.

– Mạch suốt tới chỗ quán.

– Khí phải chung tụ.

Là nói bao quát vậy.

Câu 29: Dưới đây là điểm huyệt vào những chỗ khai khẩu và minh dịch của các thế đất. Nếu không khai khẩu phải tìm chỗ long chân huyệt đích mới được, còn nếu cứ theo hình mà điểm huyệt rất dễ sai nhầm.

1. Thụ Đăng giả, điểm ư Đăng Tâm

(Cây đèn thì điểm vào tim đèn)

2. Liên Hoa giả, điểm ư Hoa Nội.

(Hình hoa sen thì điểm trong bông hoa)

3. Ngư tầm Phúc dữ Nhãn.

(Hình con cá tìm ở bụng và mắt).

4. Xà tầm Nhĩ di Tê

(Hình con rắn thì tìm nơi tai và rốn)

5. Tượng hình khán Khổng Tỵ.

(Hình con voi thì xem ở lổ mũi).

6. Ngưu hình khán Phúc Trung

(Hình con trâu thì coi nơi bụng)

7. Kê bão tầm Noãn Thượng

(Hình gà ấp tìm trên trứng)

8. Long hý châu, cầu Châu Trung

(Hình rồng rỡn quả châu tìm trong hạt châu)

9. Phượng ngộ tản phi, khí quy Túc Hạ

(Phượng tan bay thì khí quy ở dưới chân)

10. Phượng hàm thư khí quy Chủy Đầu

(Phượng ngậm sách, khí quy ở đầu mỏ).

11. Xà thính cáp tầm Nhĩ Thượng

(Rắn ngậm trai, tìm ở tai)

12. Long ẩm thủy, tầm Phúc Tề

(Rồng uống nước tìm ở bụng, rốn)

13. Bạch tượng quyến hồ, Hồ Trung thủ

(Bạch tượng cuốn nước trong hồ thì tìm trong hồ)

14. Mãnh hổ xuất sơn, Sơn Thượng tầm

(Mãnh hổ ra khỏi núi thì tìm trên núi)

15. Miên tróc thử, quan Nhãn

(Mèo bắt chuộc coi ở mắt)

16. Tê ngưu vọng nguyệt tầm Mục

(Con tê ngắm trăng tìm ở mắt)

17. Bạch mã ẩm thủy tầm Phúc

(Ngựa trắng uống nước tìm ở bụng)

18. Kim kê kiến xà, tầm Mục

(Kim kê thấy rắn, tìm ở mắt)

19. Quy hạ than tầm Lưỡng Nhãn

(Rùa xuống bến nước tìm ở hai mắt)

20. Quy triều Bắc, mịch Lưỡng Kiên

(Rùa triều hướng Bắc, tìm ở hai vai)

21. Quần dương kiến khuyển, huyệt tại Khuyển

(Đàn dê thấy khuyển, huyệt ở hình khuyển)

22. Quần nga kiến Thi, huyệt tại Thi

(Đàn quạ thấy xác chết, huyệt tại xác)

23. Hoàng xà thổ khí, kiếm Ngoại khí

(Hoàng xà phun khí, kiếm ngoại khí)

24. Sư tử hí châu, Châu Thử mịch

(Sư tử dỡn trâu, tìm quả châu)

25. Ngô công, khán Lưỡng Nhãn.

(Hình con rết xem ở hai mắt).

26. Uyển đình quan Nhất Tề

(Hình con thằn lằn xem ở rốn)

27. Tiên nhân thúc đái, huyệt tại Âm Môn.

(Cô tiên thắt dây lưng huyệt ở âm môn)

28. Mỹ nữ hiển hoa, huyệt cư Nhũ Thượng

(Gái đẹp dâng hoa, huyệt ở trên vú).

Xem tiếp chương 3,4: Phong thủy địa lý – Sơn thủy pháp, thủy khẩu [Địa Lý Tả Ao Bí Thư Đại Toàn]