Năng lực số bao gồm những năng lực gì

Bối cảnh chuyển đổi số và nhu cầu nhân lực số

Thế giới đang bước vào kỷ nguyên của chuyển đổi số – quá trình thay đổi gắn liền với việc ứng dụng công nghệ số vào mọi mặt đời sống xã hội của con người: các tài sản vật lý hữu hình đang dần chuyển thành các tài sản số, nguồn nhân lực trong các tổ chức, doanh nghiệp đang chịu tác động sâu sắc khi các vị trí nghề nghiệp liên tục biến đổi, việc ra quyết định trở nên đặc biệt phụ thuộc vào quá trình quản trị tri thức và kỹ năng, mạng xã hội và công nghệ di động ảnh hưởng mạnh mẽ lên quá trình vận hành của các tổ chức, doanh nghiệp. Năng lực số mang lại cơ hội lớn cho việc mở rộng cũng như tái định nghĩa lại các thị trường kinh doanh [1]. Thế hệ trẻ – những người sinh ra trong một môi trường được bao quanh bởi công nghệ số, sẽ mang những trải nghiệm, thói quen, hành vi liên quan đến các công nghệ này vào quá trình làm việc tại các tổ chức, doanh nghiệp, nơi các công cụ chia sẻ công việc cùng với mạng xã hội ngày một thắt chặt mối quan hệ giữa người dùng với hệ sinh thái của họ. Báo cáo về chuyển đổi số ở các nước ASEAN đã khẳng định rằng, các chính phủ cần hành động để thích ứng với những tác động từ chuyển đổi số đến nền kinh tế, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến giáo dục, đào tạo năng lực số nhằm đáp ứng những thay đổi trong nhu cầu về nhân lực của các tổ chức, doanh nghiệp [2].

Báo cáo khảo sát về năng lực của người trẻ trong kỷ nguyên số chỉ ra rằng, nhu cầu của nhà tuyển dụng về các kỹ năng số đã tăng 200% trong 3 năm vừa qua và trong vòng 5 năm tới, con số này còn được dự báo sẽ tiếp tục tăng lên nhanh chóng. Tuy nhiên, những người trẻ chưa sẵn sàng với những thay đổi đó [3]. Với sự phổ biến của các phương tiện và dữ liệu số, việc phát triển kỹ năng và kiến thức của người học trong lĩnh vực này là điều tối quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng tìm kiếm việc làm. Trong chương trình đánh giá học sinh quốc tế (PISA) được xây dựng và điều phối bởi Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) gần đây, cứ 4 học sinh Úc ở độ tuổi 15 thì có hơn 1 em (27%) cho thấy mức độ thông thạo thấp ở năng lực số [4].

Việt Nam đang từng bước có những chính sách cụ thể để thúc đẩy chuyển đổi số một cách toàn diện. Thủ tưởng Chính phủ đã phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” (Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 3/6/2020) trong đó có những mục tiêu quan trọng đến năm 2025 như: 80% dịch vụ công trực tuyến mức độ 4; 100% chế độ báo cáo của Chính phủ đều trực tuyến và số hóa; Việt Nam thuộc nhóm 70 nước dẫn đầu về chính phủ điện tử… Báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế cho thấy, Việt Nam là nước bị ảnh hưởng nhất trong khối ASEAN về lao động việc làm do chuyển đổi số với 70% người lao động ở các ngành nghề cơ bản bị ảnh hưởng [2]. Bối cảnh đặt ra cho giáo dục đại học Việt Nam một thách thức lớn trong việc đào tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng thích ứng và làm chủ công nghệ trong tiến trình chuyển đổi số của nền kinh tế. Việt Nam chưa từng xây dựng một KNLS riêng nhưng trên thực tế đã áp dụng cả 3 KNLS phát triển bởi các doanh nghiệp/tổ chức quốc tế mà UNESCO thống kê trong khảo sát của mình [5].

Năng lực số và công dân số

Theo Jane Secker, khái niệm năng lực số đã hình thành trong khoảng hơn 20 năm và thường được sử dụng cùng lúc với các khái niệm như kỹ năng số, năng lực thông tin, năng lực truyền thông hay năng lực học thuật [6]. Tranh cãi xảy ra xung quanh việc khái niệm nào bao trùm lên khái niệm nào, khái niệm nào quan trọng hơn, cũng như nhận thức về vai trò của công nghệ, thái độ, hành vi trong các khái niệm này. Tuy nhiên, tựu trung lại, có một khối lượng thông tin khổng lồ đang tồn tại dưới dạng số và người học cần có khả năng nghi ngờ hợp lý, tư duy phản biện để đánh giá chúng và nắm bắt được cách thức sử dụng các công cụ số trong chia sẻ thông tin phục vụ nghiên cứu và biểu đạt chính bản thân mình.

Vì vậy, năng lực số được xem là yếu tố sống còn để đạt đến thành công trong học tập, nghiên cứu và phát triển sự nghiệp trong tương lai [7]: đa phần vị trí việc làm sẽ được số hóa, khả năng sử dụng công nghệ số là đòi hỏi của hầu hết mọi ngành nghề, các ngành công nghiệp số trở thành nhân tố then chốt của nền kinh tế, các cơ sở giáo dục trở thành những mô hình doanh nghiệp số, giảng viên và sinh viên phải là những người tận dụng được các lợi ích của công nghệ, đồng thời hỗ trợ cộng đồng và thúc đẩy khả năng đổi mới, sáng tạo của các thế hệ kế tiếp. UNESCO định nghĩa năng lực số là khả năng truy cập, quản lý, hiểu, kết hợp, giao tiếp, đánh giá và sáng tạo thông tin một cách an toàn và phù hợp thông qua công nghệ số để phục vụ cho các công việc từ đơn giản đến phức tạp cũng như khởi nghiệp. Năng lực số là tổng hợp của năng lực sử dụng máy tính, năng lực công nghệ thông tin, năng lực thông tin và năng lực truyền thông [5]. Đây cũng là định nghĩa chính được sử dụng làm nền tảng định hướng cho phát triển KNLS trong khuôn khổ nghiên cứu này.

Theo Facebook, công dân số là cách chúng ta thực hiện những đặc quyền và nghĩa vụ của mình trong không gian mới này. Đây còn là cách chúng ta giải mã, chia sẻ thông tin mà mình có quyền truy cập và quan trọng nhất là cách chúng ta tương tác với người khác. Mỗi chúng ta đều đóng một vai trò trong việc tạo ra những công dân số có trách nhiệm và xây dựng một tương lai số tươi sáng hơn. Công dân số đề cập đến khả năng mỗi cá nhân tham gia một cách tích cực, phản biện và thông thạo vào môi trường kỹ thuật số dựa trên các kỹ năng giao tiếp hiệu quả và sáng tạo, thực hành các hình thức tham gia xã hội để tôn trọng quyền và phẩm giá con người thông qua việc sử dụng công nghệ có trách nhiệm.

Cụ thể hơn, công dân số là người có năng lực về công nghệ số (tạo lập, làm việc, chia sẻ, xã hội hóa, khám phá, vui chơi, giao tiếp và học hỏi); tham gia tích cực và có trách nhiệm (giá trị, kỹ năng, thái độ, kiến thức) vào cộng đồng (địa phương, quốc gia, toàn cầu) ở mọi lĩnh vực (chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và liên văn hóa); được tham gia vào một quá trình kép của học tập suốt đời (trong môi trường chính quy và hoặc phi chính quy) và liên tục bảo vệ phẩm giá con người [8]. Để trở thành một công dân số, mỗi cá nhân cần được trang bị năng lực số.

Khung năng lực số

Trên cơ sở so sánh các KNLS quốc tế, đồng thời tham khảo cách tiếp cận của Facebook trong các khóa học “Tư duy thời đại số” (We Think Digital), vận dụng nội dung học phần Nhập môn năng lực thông tin hiện đang được đào tạo bởi Khoa Thông tin – Thư viện, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, chúng tôi đã đề xuất một mô hình KNLS gồm 7 nhóm năng lực (bảng 1) với 26 tiêu chuẩn (hình 1): 1) Vận hành thiết bị và phần mềm; 2) Khai thác thông tin và dữ liệu; 3) Giao tiếp và hợp tác trong môi trường số; 4) An toàn và an sinh số; 5) Sáng tạo nội dung số; 6) Học tập và phát triển kỹ năng số; 7) Sử dụng năng lực số cho nghề nghiệp. Mỗi một nhóm năng lực có thể được thiết kế thành một module học tập độc lập, tương đương một học phần 3 tín chỉ. Chẳng hạn như Module 1: Vận hành thiết bị và phần mềm có thể phát triển thành học phần Nhập môn tin học ứng dụng, hay Module 2: Khai thác thông tin và dữ liệu có thể phát triển thành học phần Nhập môn năng lực thông tin. Toàn bộ 7 module có thể xây dựng thành một chương trình đào tạo năng lực số cho người học. Hoặc có thể áp dụng chuẩn đầu ra của KNLS để tích hợp vào các học phần hiện có của chương trình đào tạo, qua đó sẽ nâng cao năng lực số của người học thông qua các học phần này.

Bảng 1. Tóm tắt 7 nhóm năng lực của KNLS.

STT

Nhóm năng lực

Mô tả năng lực

1

Vận hành thiết bị và phần mềm

Nhận biết, lựa chọn và sử dụng các thiết bị phần cứng và ứng dụng phần mềm để nhận diện, xử lý dữ liệu, thông tin số trong giải quyết vấn đề.

2

Khai thác thông tin và dữ liệu

Nhận diện được nhu cầu thông tin của cá nhân; triển khai các chiến lược tìm tin, định vị và truy cập được thông tin; đánh giá các nguồn tin và nội dung của chúng; lưu trữ, quản lý và tổ chức thông tin; sử dụng thông tin phù hợp với đạo đức và pháp luật.

3

Giao tiếp và hợp tác trong môi trường số

Tương tác và giao tiếp thông qua công nghệ số và thực hành vai trò công dân số. Quản lý định danh và uy tín số của bản thân trong môi trường số. Sử dụng công cụ và công nghệ số để hợp tác, cùng thiết kế, tạo lập các nguồn tin và tri thức.

4

An toàn và an sinh số

Bảo vệ các thiết bị, nội dung, dữ liệu cá nhân và quyền riêng tư trong môi trường số. Bảo vệ sức khỏe và tinh thần. Nhận thức về tác động của công nghệ số đối với hạnh phúc xã hội và hòa nhập xã hội. Nhận thức về ảnh hưởng của công nghệ số và việc sử dụng chúng đối với môi trường.

5

Sáng tạo nội dung số

Tạo lập và biên tập nội dung số. Chuyển đổi, kết hợp thông tin và nội dung số vào vốn tri thức sẵn có. Hiểu rõ về hệ thống giấy phép và bản quyền liên quan đến quá trình sáng tạo nội dung số.

6

Học tập và phát triển kỹ năng số

Nhận diện được các cơ hội và thách thức trong môi trường học tập trực tuyến. Hiểu được nhu cầu và sở thích cá nhân với tư cách là người học tập trong môi trường số. Thúc đẩy truy cập mở và chia sẻ thông tin. Ý thức được tầm quan trọng của việc học tập suốt đời đối với sự phát triển cá nhân.

7

Sử dụng năng lực số cho nghề nghiệp

Vận hành các công nghệ số trong các bối cảnh nghề nghiệp đặc thù. Hiểu, phân tích và đánh giá dữ liệu, thông tin và nội dung số đặc thù trong hoạt động nghề nghiệp. Thực hành đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp trong môi trường số.

Hình 1. Cấu trúc của KNLS.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] E. Henriette, et al. (2015), “The shape of digital transformation: A systematic literature review”, Mediterranean conference on information systems (MCIS) proceedings, pp.1-13.

[2] J. Change and P. Huynh (2016), ASEAN in tranformation – The future of jobs at risk of automation, Bureau for Employers’ Activities.

[3] L. Pangrazio (2019), Young People’ s literacies in the digital age continuities, conflicts and contradictions.

[4] S. Thomson and L. De Bortoli (2012), Preparing Australian students for the digital world: results from the PISA 2009 digital reading literacy assessment, ACER Press.

[5] UNESCO (2018), A global framework of reference on digital literacy, UNESCO Institute for Statistics.

[6] J. Secker (2018), “The trouble with terminology: rehabilitating and rethinking digital literacy”, Digital literacy unpacked, pp.3-16).

[7] C. Killen (2018), “Collaboration and coaching: Powerful strategies for developing digital capabilities”, Digital literacy unpacked, pp.29-44.

[8] https://www.coe.int/en/web/digital-citizenship-education/a-conceptual-model.

Nhóm biên soạn