Tìm hiểu các thế hệ Mitsubishi Lancer

Mitsubishi Lancer

Mitsubishi Lancer là mẫu xe gia đình được chế tạo bởi Mitsubishi Motors từ 1973 & phân phối trên thị trường thế giới bên dưới những tên thường gọi khác nhau tại các thời điểm khác nhau như: Dodge/Plymouth Colt, Chrysler Valiant Lancer, Chrysler Lancer, Mitsubishi Carisma và Mitsubishi Mirage. Từ lúc công bố cho đến năm 2008, đã có sáu triệu chiếc Lancer được đẩy ra trên toàn cầu.

Dòng xe này chính thức ra mắt Thị trường việt nam từ thời điểm tháng 5/2000 dưới dạng sản xuất lắp ráp linh kiện (CKD).

Mitsubishi Lancer thế hệ thứ I (1973 – 1979)

Mitsubishi Lancer thế hệ đầu tiên (A70) được công bố vào tháng hai năm 1973. Nó phục vụ để lấp đầy khoảng trống giữa chiếc xe Minica kei và chiếc Galant to hơn. Phiên bản đời 1600 GSR Sport đã bắt đầu lịch sử đua xe thành công của Lancer, hai lần giành được Safari Rally & bốn lần Southern Cross Rally.

Có bốn kiểu thân xe, xe mui kín hai & bốn cửa, một chiếc coupe mui cứng hai cửa và một chiếc Station Wagon 5 cửa được lắp ráp cho đến khi được thay thế bằng Lancer / Mirage van dẫn động cầu trước vào thời điểm tháng 3 năm 1984). Lancer có 3 lựa chọn động cơ là 1,2 lít, 1,4 lít và 1,6 lít.

Chiếc xe này được bán trên thị trường dưới nhiều tên gọi khác nhau: Dodge Colt ở Hoa Kỳ, Plymouth Colt ở Canada, Dodge Lancer ở một số nước Mỹ Latinh, Chrysler Valiant Lancer ở Úc và Colt Lancer ở một vài thị trường châu âu.

Mitsubishi Lancer Celeste 1975

Vào thời điểm tháng hai năm 1975, Lancer bổ sung một chiếc hatchback mang tên Lancer Celeste, kế nhiệm Galant FTO . Nó cũng khá được gọi là Mitsubishi Celeste (New Zealand) hoặc Colt Celeste ở một số thị trường và được bán dưới dạng Chrysler Lancer ở Úc, Dodge Lancer Celeste ở El Salvador , Plymouth Arrow ở Hoa Kỳ & Dodge Arrow ở Canada.

Việc chế tạo Lancer bốn cửa lúc đầu là ở New Zealand vào năm 1975, bổ sung cho chiếc Hillman Avengers lớn hơn cũng đang được bày bán tại đây bởi nhà nhập khẩu trực tiếp Todd Motors. Celeste được nhập trực tiếp từ Nhật Bản lúc đầu và chế tạo một phiên bản hộp số sàn1.6 lít duy nhất ban đầu vào năm 1978.

Celeste ban đầu có sẵn với các tùy chọn 1,4 và 1,6 lít, Ngoài ra một phiên bản đời xe 2.0 lít lớn hơn đã được ra mắt sau này. Việc chế tạo Lancer Celeste hoàn thành vào tháng 7 năm 1981 & nó được thay thế bằng chiếc Cordia dẫn động cầu trước vào năm 1982.

Mitsubishi Lancer thế hệ thứ II (1979 – 1987)

Năm 1979, Lancer EX hoàn toàn mới đã được ra mắt tại Nhật Bản. Kiểu dáng mới với thiết kế khí động học bởi liên kết với cản nhựa. Dòng này được kết hợp thiết kế của Mitsubishi Galant & Mitsubishi Sapporo đã được giới thiệu cách đây không lâu. Chiếc xe mang trong mình một diện mạo đậm chất châu âu hơn đối với những chiếc xe Mitsubishi trước đó.

Lúc đầu, chỉ có hai động cơ được lắp đặt, động cơ được trang bị MCA-JET 1,4 lít kết hợp với công nghệ trục khuỷu của Mitsubishi ( Mitsubishi’s Silent Shaft Công nghệ), tạo ra 78 mã lực & động cơ 1.6 lít tạo nên 83 mã lực. Hệ thống MCA-JET là 1 trong khái niệm hoàn toàn mới khi so sánh tương quan với hệ thống chế hòa khí được sử dụng trước đây. MCA là viết tắt của Mitsubishi Clean Air, có nghĩa là EX đã vượt qua cả hai tiêu chuẩn khí thải của Nhật Bản và Hoa Kỳ. Trong khi thiết kế đầu xy-lanh mới của động cơ đã nhường chỗ cho 1 valve Jet đưa thêm một luồng không khí vào buồng đốt. Tạo thành một dòng khí xoáy ngay trong buồng đôt, đốt sạch nhiên liệu hơn.

Mitsubishi Lancer 1980

Ngoài những làm mới này, một bước đột phá khác trong dòng sản phẩm Lancer là công nghệ trục im lặng, sự thật là hai trục đối trọng quay theo hai hướng ngược nhau, hủy bỏ các rung động vốn có trong động cơ bốn xi-lanh thẳng hàng. Điều đó giúp giảm cả tiếng ồn & độ rung của động cơ và mang đến cảm giác lái mềm mại hơn. Những động cơ Sirius 80 1,8 lít tiếp nối đã được ra mắt trong Lancer vào năm 1980 mở rộng phạm vi động cơ của Lancer. Ngoài ra, một động cơ tăng áp, 135 PS (99 kW) đã được ra mắt năm 1980 để sở hữu hiệu suất Thể Thao hơn & một hệ thống intercooler cũng được tích hợp trong động cơ tăng áp hiện có để tạo ra công suất 185 mã lực vào năm 1983.

Mitsubishi Lancer GSR & GT Turbo 1980

Vào năm 1980, Lancer EX đã được giới thiệu với tùy chọn động cơ tăng áp 4 xylanh 1,8 lít được gọi là 1800GSR & GT Turbo.

Mitsubishi Lancer thế hệ thứ III – VII (1987 – 2003) Mirage Base Lancer

Giữa năm 1988 & 2003, Lancer tại Nhật Bản có xuất xứ từ Mirage được bán ở nhiều Thị trường xuất khẩu dưới tên Colt . Ban đầu, Mitsubishi đã ra mắt Mirage vào năm 1978 dưới dạng một chiếc hatchback dẫn động cầu trước, với cùng một bản mui trần sau đó được ra mắt vào năm 1982 & một phiên bản được bán tại Nhật Bản với tên Lancer Fiore.

Năm thế hệ của Mirage được sản xuất bởi Mitsubishi từ 1987 cho đến năm 2003, với các thế hệ mới được ra mắt vào năm 1983 và 1987 (với dòng Lancer tương đồng bị trì hoãn cho đến năm 1988)

Trong khoảng thời gian từ 1982 đến 1987, mẫu xe Mirage đã nói ở trên với những sửa đổi nhỏ về kiểu dáng được bán bên dưới dạng Lancer Fiore thông qua các kênh bán lẻ của Nhật Bản. Fiore kéo dài hai thế hệ, thế hệ thứ hai có mặt trên thị trường vào năm 1983.

Dù rằng các quy ước đặt tên rất phong phú, nhưng trong toàn bộ các thế hệ, những bản mui trần của Mirage thường được đặt tên là Lancer tại các thị trường xuất khẩu như Philippines. Tại Nhật Bản, các phiên bản của Mirage và Lancer được bán cùng với một trong những khác biệt nhỏ về ngoại hình. Wagon, một mẫu xe thuộc Mirage này được bán ra từ 1983 & 1991, thường được gọi là Lancer trong thị trường xuất khẩu. Tương tự, phiên bản Coupe Mirage, có sẵn với các thế hệ 1991 và 1995, cũng trở thành một phần của dòng Lancer ở một vài khu vực.

Mitsubishi đã ra mắt các thay thế cho Mirage khởi nguồn từ năm 2000. Với một thế hệ Lancer Sedan mới giờ đã có kích cỡ lớn hơn nên Mirage đã chuyển qua phân khúc nhỏ gọn. Tiếp đến vào năm 2002, một chiếc hatchback năm cửa subcompact gắn huy hiệu Colt được ra mắt, từ đó thay thế cho chiếc hatchback Mirage. Đến năm 2003, Mirage đã bị loại khỏi dây chuyền chế tạo chính của Nhật Bản và Lancer trở thành dòng sản phẩm chính cho những sản phẩm xe kích thước nhỏ gọn của Mitsubishi.

Mitsubishi Lancer thế hệ thứ VIII (2000 – 2010)

Mitsubishi Lancer 2000

Tháng 5 năm 2000 tận mắt chứng kiến ​​bản ra mắt tại Nhật Bản của Lancer Cedia (có nghĩa là CEntury DIAmond). Dù rằng ở phần lớn các Thị trường, Lancer dựa trên Mirage truyền thống năm 1995 vẫn tiếp tục được kiến thiết tận nhà máy Mizushima của Mitsubishi tại Nhật Bản. Các bản đời mới đã có sẵn trong những bề ngoài Sedan & Station wagon. Ở châu âu, Lancer không được hỗ trợ ở một vài quốc giá vì lí do quá gần với kích cỡ của chiếc Mitsubishi Carisma do Hà Lan chế tạo. Do đó mẫu Evo VII được bán ở đó mang tên Carisma. Loạt Lancer này vẫn được bán tại Nhật Bản nơi Lancer thế hệ 2007 trở đi được gọi là “Galant Fortis”.

Mitsubishi Lancer GT & GSR 2007

Năm 2007, Mitsubishi đã ra mắt một phiên bản 2.0 có tên Lancer GT và GSR. GT được cung cấp bởi phiên bản động cơ hút khí tự nhiên của 4G63 cùng hộp số INVECS II 4 tốc độ. GT cũng có ghế bán xô thể thao & vô lăng Momo Trong khi GSR có ghế bọc da.

Mitsubishi Lancer thế hệ thứ IX (2007 – 2017)

Mitsubishi Lancer 2005

Vào năm 2005, Mitsubishi đã tiết lộ dòng xe “Concept X” tại Tokyo Motor Show và mẫu “Concept Sportback” của hãng tại Frankfurt Motor Show. Lancer mới được chính thức được vén màn vào thời điểm tháng 1 năm 2007 tại Detroit Motorr Show và được bán tại các thị trường Bắc Mỹ trong thời điểm tháng 3 năm 2007 dưới dạng phiên bản đời xe năm 2008.

Lancer mới có thân xe an toàn RISE thế hệ tiếp theo của Mitsubishi. Ngoại trừ Lancer Evolution X, Lancer được bán trên Thị trường với tên gọi Galant Fortis (tiếng Latin nghĩa là cơ bắp, gan góc & kiên quyết) tại Thị trường nội địa Nhật Bản. Nó có ba cấp độ phiên bản: Exceed, Super Exceed & Sport.

Mitsubishi Lancer Facelift 2016

Trong thời điểm tháng 10 năm 2015, Mitsubishi đã công bố chi tiết về mẫu xe năm 2016 Lancer facelift cho Bắc Mỹ. Phiên bản cập nhật MY16 đã được ra mắt & ra mắt cho Úc vào thời điểm tháng 12 năm 2015. Nó có mặt trước biến hóa nhẹ & không có lưới tản nhiệt kiểu Ralliart của bản MY15, giờ đây có cản trước sạch hơn với kết hợp chrome trên & bên dưới lưới tản nhiệt. Đèn hiển thị ban ngày LED hình chữ C mới bao quanh đèn sương mù & váy bên kết thúc những biến đổi phía bên ngoài. Trong khi cabin có cụm công cụ có độ tương phản cao, bảng điều khiển trung tâm phía đằng trước mới với các điểm nhấn màu bạc và đen, và hệ thống âm thanh màn hình hiển thị cảm biến màu mới với Radio kỹ thuật số hiện đại.

Phó quản trị và Giám đốc điều hành của Mitsubishi Motors Bắc Mỹ, Don Swearingen, đã chứng thực vào tháng 1 năm 2017 rằng Mitsubishi sẽ kết thúc sản xuất của Lancer trong tháng 8 năm 2017, mà hoàn toàn không có người kế nhiệm. Trọng tâm chính của Mitsubishi là tập chung vào dòng crossover và xe đa dụng. Nhưng việc sản xuất Mirage hatchback và chiếc xe sedan G4 sẽ vẫn tiếp tục do nhu cầu thịnh hành tiếp tục cho mẫu xe Mirage tại Thị trường Bắc Mỹ.

Mitsubishi Lancer thế hệ thứ X (2017 – nay)

Vào thời điểm tháng một năm 2017, Mitsubishi Motors đã chấp thuận cho cái tên Lancer tại một trong những Thị trường châu Á bao hàm Đài Loan & Trung Quốc. Sau năm 2017, do nhu cầu thông dụng liên tục đối với chiếc tên Lancer trong thế giới nói tiếng Trung Quốc . Sự phát triển của Grand Lancer mới tại Đài Loan được lãnh đạo & thiết kế bởi tập đoàn xe ô tô Trung Quốc Đài Loan (CMC). Một phần của thiết kế đã được hợp tác với Pininfarina Thượng Hải.

Do phiên bản nước ngoài bị ngừng sản xuất, Lancer thế hệ mới sẽ được thiết kế trên căn cơ hệt như bản đời xe hiện tại như 1 bản nâng cấp lan rộng. Nó đi kèm với lưới tản nhiệt mới của Mitsubishi Dynamic Shield & các nếp gấp được thiết kế với lại trên các tấm thân xe. Nội thất, mui xe phía đằng trước, cản trước, dè chắn bùn trước, tấm cửa trước & sau bao gồm cửa sổ hành khách phía sau, nắp khởi động và cản sau đã có thiết kế lại trọn vẹn cho thế hệ mới, Bên cạnh đó phần còn lại được chuyển từ trước -2017 bản đời.