Việt Nam sử lược – Chương IV: Nhà Lý (1010-1225) – vansu.vn

Việt Nam sử lược

Chương IV: Nhà Lý (1010-1225)

I. Lý Thái Tổ (1010-1028)

1. Thái Tổ khởi nghiệp

Lý Công Uẩn người ở làng Cổ Pháp, nay thuộc về huyện Đông Ngạn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (ở làng Đình Bảng có lăng và đền thờ nhà Lý).

Tục truyền rằng Công Uẩn không có cha, mẹ là Phạm Thị đi chơi chùa Tiêu Sơn (làng Tiêu Sơn, phủ Từ Sơn), nằm mộng thấy đi lại với thần nhân rồi về có thai đẻ ra đứa con trai. Lên ba tuổi đem cho người sư ở chùa Cổ Pháp tên là Lý Khánh Văn làm con nuôi, mới đặt tên là Lý Công Uẩn.

Công Uẩn lớn lên vào Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lê, đến chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ. Khi Lê Long Đĩnh mất, thì Lý Công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Bấy giờ lòng người đã oán giận nhà Tiền Lê lắm, ở trong triều có bọn Đào Cam Mộc cùng với sư Vạn Hạnh mưu tôn Lý Công Uẩn lên làm vua.

Lý Công Uẩn bèn lên ngôi hoàng đế, tức là vua Thái Tổ nhà Lý.

2. Dời đô về Thăng Long thành

Thái Tổ thấy đất Hoa Lư chật hẹp không có thể mở mang ra làm chỗ đô hội được, bèn định dời đô về La Thành. Tháng 7 năm Thuận Thiên nguyên niên (1010), thì khởi sự dời đô. Khi ra đến La Thành, Thái Tổ lấy cớ có điềm trông thấy rồng vàng hiện ra, bèn đổi Đại La Thành là Thăng Long thành tức là thành Hà Nội bây giờ. Cải Hoa Lư làm Trường An phủ và Cổ Pháp làm Thiên Đức phủ.

3. Lấy kinh Tam Tạng

Nhà Lý bấy giờ sùng đạo Phật, nhà vua trọng đãi những người đi tu, lấy tiền kho ra để làm chùa đúc chuông. Tháng 6 năm Mậu Ngọ (1018) vua sai quan là Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc sang Tàu lấy kinh Tam Tạng đem về để vào kho Đại Hưng.

4. Việc chính trị

Lúc bấy giờ ở bên nhà Tống có nhiều việc, cho nên cũng không sinh sự lôi thôi gì với nước ta. Bởi vậy khi Thái Tổ lên làm vua, sai sứ sang cầu phong, vua nhà Tống liền phong cho làm Giao Chỉ Quận Vương, sau lại gia phong Nam Bình Vương. Nước Chiêm Thành và nước Chân Lạp đều sang triều cống, cho nên việc bang giao thời bấy giờ được yên trị.

Ở trong nước cũng có đôi ba nơi nổi lên làm loạn, như ở Diễn Châu (thuộc Nghệ An) và ở mạn thượng du hay có sự phản nghịch, nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp mới yên được.

Thời bấy giờ các hoàng tử đều phong tước vương và phải cầm quân đi đánh giặc, bởi vậy ai cũng giỏi nghề dùng binh.

Thái Tổ lưu tâm về việc sửa sang trong nước: đổi phép cũ của nhà Tiền Lê; chia nước ra làm 24 lộ, gọi Hoan Châu và Ái Châu là trại. Lại định ra 6 hạng thuế là: thuế ruộng, đầm, ao; thuế đất trồng dâu và bãi phù sa; thuế sản vật ở núi; thuế mắm muối đi quan Ải quan; thuế sừng tê, ngà voi và hương ở trên mạn núi xuống; thuế tre gỗ hoa quả. Vua cho những bậc công chúa coi việc trưng thu các thứ thuế ấy.

Thái Tổ trị vì được 19 năm thì mất, thọ 55 tuổi.

II. Lý Thái Tông (1028-1054)

Niên hiệu: Thiên Thành (1028-1033), Thông Thụy (1034-1038), Càn Phù hữu đạo (1039-1041). Minh Đạo (1042-1043), Thiên Cảm thánh võ (1044-1048), Sùng Hưng Đại Bảo (1049-1054).

1. Lê Phụng Hiểu định loạn

Thái Tổ vừa mất chưa tế táng xong, thì các hoàng tử là bọn Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương và Đông Chinh Vương đã đem quân đến vây thành để tranh ngôi của thái tử.

Bấy giờ các quan là bọn Lý Nhân Nghĩa xin thái tử cho đem quân ra thành quyết được thua một trận. Khi quân của thái tử và quân của các vương đối trận, thì quan Võ vệ tướng quân là Lê Phụng Hiểu rút gươm ra chỉ vào Võ Đức Vương mà bảo rằng: “Các người dòm ngó ngôi cao, khinh dễ tự quân, trên quên ơn tiên đế, dưới trái nghĩa tôi con, vậy Phụng Hiểu xin dâng nhát gươm này!”. Nói xong chạy xông vào chém Võ Đức Vương ở trận tiền. Quân các vương trông thấy sợ hãi bỏ chạy cả. Dực Thánh Vương và Đông Chinh Vương cũng phải chạy trốn.

Thái tử Phật Mã lên ngôi, tức là vua Thái Tông.

Dực Thánh Vương và Đông Chinh Vương xin về chịu tội.

Thái Tông nghĩ tình cốt nhục bèn tha tội cho, và lại phục chức cũ cho cả hai người.

Cũng vì sự phản nghịch ấy cho nên vua Thái Tông mới lập lệ: cứ hằng năm, các quan phải đến đền Đồng Cổ (ở làng Yên Thái, Hà Nội) làm lễ đọc lời thề rằng: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, ai bất hiếu bất trung, xin quỷ thần làm tội”. Các quan ai trốn không đến thề, phải phạt 50 trượng.

2. Sự đánh dẹp

Thái Tông là người có thiên tư dĩnh ngộ, thông lục nghệ, tinh thao lược, gặp lúc trong nước có nhiều giặc giã, nhưng ngài đã quen việc dùng binh, cho nên ngài thường thân chinh đi đánh đông dẹp bắc.

Thời bấy giờ nhà vua không đặt quan tiết trấn; phàm việc binh việc dân ở các châu, là đều giao cả cho người châu mục. Còn ở mạn thượng du thì có người tù trưởng quản lĩnh. Cũng vì quyền những người ấy to quá, cho nên thường hay có sự phản nghịch. Lại có những nước lân bang như Chiêm Thành và Ai Lao thường hay sang quấy nhiễu, bởi vậy cho nên sự đánh dẹp về đời vua Thái Tông rất nhiều.

3. Giặc Nùng

Lúc ấy châu Quảng Nguyên (Lạng Sơn) có những người Nùng rất hay làm loạn. Năm Mậu Dần (1038) có Nùng Tồn Phúc làm phản, tự xưng là Chiêu Thánh Hoàng đế, lập A Nùng làm Ninh Đức Hoàng hậu, đặt quốc hiệu là Tràng Sinh quốc rồi đem quân đi đánh phá các nơi.

Năm Kỷ Mão (1039) Thái Tông thân chinh đi đánh, bắt được Nùng Tồn Phúc và con là Nùng Trí Thông đem về kinh xử tội. Còn A Nùng và con là Nùng Trí Cao chạy thoát được.

Năm Tân Tị (1041), Nùng Trí Cao cùng với mẹ là A Nùng về lấy châu Đảng Do (gần châu Quảng Nguyên) lập ra một nước gọi là Đại Lịch quốc. Thái Tông sai tướng lên đánh bắt được đem về Thăng Long. Nhưng vua nghĩ trước đã giết cha và anh, nay thương tình không giết, tha cho về và lại phong cho làm Quảng Nguyên mục. Sau lại gia phong cho tước Thái bảo.

Năm Mậu Tí (1048), Nùng Trí Cao lại phản, xưng là Nhân Huệ Hoàng đế, quốc hiệu là Đại Nam. Thái Tông sai quan Thái úy Quách Thịnh Dật lên đánh không được. Bấy giờ Trí Cao bèn đem quân sang đánh lấy Ung Châu, rồi chiếm cả thảy được 8 châu ở đất Quảng Đông và Quảng Tây. Những châu ấy là châu Hoành, châu Quý, châu Cung, châu Tầm, châu Đằng, châu Ngô, châu Khang, châu Đoan.

Vua nhà Tống đã toan nhờ quân nhà Lý sang đánh giúp nhưng tướng nhà Tống là Địch Thanh can rằng: Có một Nùng Trí Cao mà đất Lưỡng Quảng không chế được, lại phải nhờ quân ngoại quốc vào đánh giúp. Nếu có ai nhân đó mà nổi loạn, thì làm thế nào? Vua nhà Tống nghe lời ấy bèn sai bọn Dư Tĩnh và Tôn Miện đi đánh dẹp giặc Trí Cao. Bọn Dư Tĩnh đánh mãi không được, nhà Tống lấy làm lo, nhân khi Trí Cao dâng biểu xin lĩnh chức Tiết độ sứ châu Ung và châu Quý, vua nhà Tống đã toan thuận cho, Địch Thanh can ngăn, và xin đem quân đi đánh.

Địch Thanh ra hợp quân với bọn Dư Tĩnh và Tôn Miện đóng ở Tân Châu (Liễu Châu, tỉnh Quảng Tây) rồi hội các tướng lại cấm không cho ra đánh nhau với giặc. Bấy giờ có quan Kiềm Hạt tỉnh Quảng Tây tên là Trần Thự trái tướng lệnh đem quân đi đánh bị thua, Địch Thanh đem chém đi, rồi truyền lệnh cho quân nghỉ 10 ngày. Quân đi thám biết chuyện ấy về báo Trí Cao biết. Trí Cao tưởng là quân nhà Tống không dám đánh, bèn không phòng giữ. Địch Thanh đem quân đến cửa Côn Lôn (gần phủ Nam Ninh) đánh Nùng Trí Cao. Lúc đang đánh nhau, Địch Thanh đem quân kỵ đánh hai bên tả hữu, quân của Trí Cao tan vỡ, tướng là bọn Hoàng Sư Mật đều tử trận.

Trí Cao chạy thoát trốn sang nước Đại Lý. Sau người Đại Lý bắt Nùng Trí Cao chém lấy đầu đem nộp nhà Tống. Giặc Nùng từ đó mới yên.

4. Đánh Chiêm Thành

Thái Tông lên làm vua đã 15 năm, mà nước Chiêm Thành không chịu thông sứ và lại cứ quấy nhiễu ở mặt bể. Thái Tông bèn sắp sửa binh thuyền sang đánh Chiêm Thành.

Năm Giáp Thân (1044) vua Thái Tông ngự giá đi đánh Chiêm Thành. Quân Chiêm Thành dàn trận ở phía nam sông Ngũ Bồ (?), Thái Tông truyền thúc quân đánh tràn sang, quân Chiêm Thành thua chạy. Quân ta bắt được hơn 5.000 người và 30 con voi.

Tướng Chiêm Thành là Quách Gia Gi chém Quốc Vương là Sạ Đẩu đem đầu sang xin hàng.

Thái Tông trông thấy động lòng thương, xuống lệnh cấm không được giết người Chiêm Thành, hễ ai trái lệnh thì theo phép quân mà trị tội.

Thái Tông tiến binh đến quốc đô là Phật Thệ (nay ở làng Nguyệt Bậu, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên), vào thành bắt được Vương phi là Mị Ê và các cung nữ đem về. Khi xa giá về đến sông Lý Nhân, Thái Tông cho đòi Mị Ê sang chầu bên thuyền ngự. Mị Ê giữ tiết không chịu, quấn chiên lăn xuống sông mà tự tử. Nay ở phủ Lý Nhân còn có đền thờ.

Thái Tông bắt về hơn 5.000 người Chiêm Thành ban cho ruộng đất lập thành phường ấp mà làm ăn.

5. Việc chính trị

Thái Tông tuy phải đánh dẹp luôn, nhưng cũng không bỏ việc chính trị trong nước, bao giờ cũng để lòng thương dân. Hễ năm nào đói kém hay là đi đánh giặc về, thì lại giảm thuế cho hàng hai ba năm. Ngài sửa lại luật phép, định các bậc hình phạt, các cách tra hỏi, và đặt lệ cho những người già người trẻ, trừ khi phạm tội thập ác, nếu không thì được lấy tiền mà chuộc tội. Nhân khi đổi luật mới, nhà vua đổi niên hiệu là Minh Đạo (1042).

Năm Quý Mùi (1043) Thái Tông hạ chiếu cấm không cho ai được mua hoàng nam (là người từ 18 tuổi trở lên) để làm nô. Vua lại chia đường quan lộ ra từng cung, đặt nhà trạm để chạy giấy công văn.

Ở trong cung thì Thái Tông định số hậu phi và cung nữ như sau này: hậu và phi 13 người, ngự nữ 18 người, nhạc kỹ 100 người. Những cung nữ phải học nghề thêu dệt gấm vóc.

Thái Tông trị vì được 27 năm, đến năm Giáp Ngọ (1054) thì mất, thọ 55 tuổi.

III. Lý Thánh Tông (1054-1072)

Niên hiệu: Long Thuỵ Thái Bình (1054- 1058); Chương Thánh Gia Khánh (1059-1065); Long Chương Thiên Tự (1066-1067); Thiên Chúc Bảo Tương (1060), Thần Võ (1069-1072).

1. Việc chính trị

Thái tử Nhật Tôn lên ngôi, tức là vua Thánh Tông, ngài đổi quốc hiệu là Đại Việt.

Thánh Tông là một ông vua nhân từ, có lòng thương dân; một năm trời rét lắm, Thánh Tông bảo những quan hầu gần rằng: “Trẫm ở trong cung ăn mặc thế này còn rét, nghĩ những tù phạm giam trong ngục, phải trói buộc, cơm không có mà ăn, áo không có mà mặc; vả lại có người xét hỏi chưa xong, gian ngay chưa rõ, nhỡ rét quá mà chết thì thật là thương lắm”. Nói rồi truyền lấy chăn chiếu cho tù nằm, và mỗi ngày cho hai bữa ăn. Lại có một hôm Thánh Tông ra ngự ở điện Thiên Khánh xét án, có Động Thiên công chúa đứng hầu ở bên cạnh. Thánh Tông chỉ vào công chúa mà bảo các quan rằng: “Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, hiềm vì trăm họ ngu dại, làm càn phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ rày về sau tội gì cũng phải giảm nhẹ bớt đi”.

Vua Thánh Tông có nhân như thế, cho nên trăm họ mến phục, trong đời ngài làm vua ít có giặc giã. Ngài lại có ý muốn khai hoá sự văn học, lập văn miếu, làm tượng Chu Công, Khổng Tử và 72 tiền hiền để thờ. Nước ta có văn miếu thờ Khổng Tử và chư hiền khởi đầu từ đấy.

Việc binh chính thì ngài định quân hiệu và chia ra làm tả hữu tiền hậu 4 bộ, hợp lại là 100 đội, mỗi đội có lính kỵ và lính bắn đá. Còn những phiên binh thì lập ra thành đội riêng không cho lẫn với nhau. Binh pháp nhà Lý bấy giờ có tiếng là giỏi, nhà Tống bên Tàu đã phải bắt chước. Ấy là một sự vẻ vang cho nước mình bao nhiêu!

2. Lấy đất Chiêm Thành

Vua Thánh Tông đã nhân mà lại dũng: nước Chiêm Thành hay sang quấy nhiễu, ngài thân chinh đi đánh. Đánh lần đầu không thành công, đem quân trở về. Đi đến châu Cư Liên (?) nghe thấy người khen bà Nguyên phi ở nhà giám quốc, trong nước được yên trị, Thánh Tông nghĩ bụng rằng: “Người đàn bà trị nước còn được như thế, mà mình đi đánh Chiêm Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm à!” Lại đem quân trở lại đánh bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ. Năm ấy là năm Kỷ Dậu (1069). Thành công về triều, đổi niên hiệu là Thần Võ.

Chế Củ xin dâng đất ba châu để chuộc tội, là châu Địa Lý, châu Ma Linh và châu Bố Chính. Thánh Tông lấy ba châu ấy và cho Chế Củ về nước.

Những châu ấy nay thuộc địa hạt tỉnh Quảng Bình và tỉnh Quảng Trị.

Năm Nhâm Tý (1072) Thánh Tông mất, trị vì được 17 năm, thọ 50 tuổi.

IV. Lý Nhân Tông (1072-1127)

Niên hiệu: Thái Ninh (1072-1075), Anh Võ Chiêu Thắng (1076-1084), Quảng Hữu (1085-1091), Hội Phong (1092-1100), Long Phù (1101-1119), Thiên Phù Duệ Võ (1120-1126), Thiên Phù Khánh Thọ (1127).

1. Ỷ Lan thái phi

Vua Nhân Tông là con bà Ỷ Lan Thái phi, người ở Siêu Loại (Bắc Ninh). Khi trước vua Thánh Tông đã 40 tuổi mà không có con, đi cầu tự qua làng Thổ Lội (sau đổi là Siêu Loại rồi lại đổi là Thuận Quang), người đi xem đứng đầy đường, có một người con gái đi hái dâu, thấy xe nhà vua đi cứ đứng tựa vào cây lan chứ không ra xem. Vua thấy thế làm lạ, truyền gọi đem vào cung, phong là Ỷ Lan phu nhân. Được ít lâu bà có thai đẻ ra hoàng tử Càn Đức, được phong là Nguyên phi.

Càn Đức làm thái tử rồi lên nối ngôi, tức là vua Nhân Tông, phong cho mẹ đẻ làm Ỷ Lan Thái phi.

2. Lý Đạo Thành

Lúc Nhân Tông lên làm vua mới có 7 tuổi, có quan Thái sư là Lý Đạo Thành làm phụ chính.

Ông Lý Đạo Thành là người họ nhà vua, tính rất đoan chính, hết lòng lo việc nước. Thường những lúc sớ tấu cứ hay nói đến việc lợi hại của dân. Những quan thuộc thì chọn lấy người hiền lương mà cất nhắc lên để làm mọi việc. Bởi vậy thời bấy giờ trong thì sửa sang được việc chính trị, ngoài thì đánh nhà Tống, phá quân Chiêm. Ấy cũng nhờ có tôi hiền tướng giỏi cho nên mới thành được công nghiệp như vậy.

3. Việc sửa sang trog nước

Việc đánh dẹp về đời vua Nhân Tông thì nhiều, song những công việc ở trong nước cũng không bỏ trễ. Đời bấy giờ mới khởi đầu đắp đê cái Cơ Xá để giữ đất kinh thành cho khỏi lụt ngập. Việc đắp đê khởi đầu từ đó.

Năm Ất Mão (1075) mở khoa thi tam trường để lấy người văn học vào làm quan. Kỳ thi ấy là kỳ đầu tiên ở nước ta, chọn được hơn 10 người. Thủ khoa là Lê Văn Thịnh. Ông thủ khoa ấy ngày sau làm đến chức Thái sư, nhưng vì làm sự phản nghịch, cho nên bị đày lên Thao Giang (huyện Tam Nông, Phú Thọ).

Năm Bính Thìn (1076) lập Quốc Tử Giám để bổ những người văn học vào dạy. Đến năm Bính Dần (1086) mở khoa thi chọn người văn học vào Hàn Lâm Viện, có Mạc Hiển Tích đỗ đầu, được bổ Hàm lâm học sĩ.

Sự Nho học nước ta khởi đầu thịnh lên từ thời bấy giờ.

Năm Kỷ Tị (1089) định quan chế, chia văn võ ra làm 9 phẩm. Quan đại thần thì có Thái sư, Thái phó, Thái uý và Thiếu sư, Thiếu phó, Thiếu úy. Ở dưới những bậc ấy, đàng văn ban thì có Thượng thư, tả hữu Tham tri, tả hữu Gián nghị đại phu, Trung thư thị lang, Bộ thị lang… Đàng võ ban thì có Đô thống Nguyên súy, Tổng quản khu mật sứ, Khu mật tả hữu sứ, Kim ngô thượng tướng, đại tướng, đô tướng, Chư vệ tướng quân…

Ở ngoài các châu quận, văn thì có Tri phủ, Phán phủ, Tri châu, võ thì có Chư lộ trấn trại quan.

4. Việc đánh nhà Tống

Từ nhà Đinh, nhà Lê trở đi, tuy Tàu không cai trị nước ta nữa, nhưng vẫn lăm le có ý muốn xâm lược. Đến đời vua Thần Tông nhà Tống (1068-1078) có quan Tể tướng là Vương An Thạch đặt ra phép mới để cải tổ việc chính trị nước Tàu.

Nguyên nhà Tống bấy giờ bị nước Bắc Liêu và nước Tây Hạ ức hiếp, hằng năm phải đem vàng bạc và lụa vải sang cống hai nước ấy. Mà trong nước thì không có đủ tiền để chi dụng. Vua Thần Tông mới dùng ông Vương An Thạch làm Tể tướng để sửa sang mọi việc.

Vương An Thạch đặt ra ba phép về việc tài chính và 2 phép về việc binh chính.

Việc tài chính:

1. Phép thanh miêu là khi lúa còn xanh thì nhà nước cho dân vay tiền, đến khi lúa chín thì dân lại phải trả tiền lại, tính theo lệ nhà nước đã định mà trả tiền lãi.

2. Phép miễn dịch là cho những người dân đinh mà ai phải sưu dịch thì được nộp tiền, để nhà nước lấy tiền ấy thuê người làm.

3. Phép thị dịch là đặt ra một sở buôn bán ở chốn kinh sư, để có những thứ hàng hóa gì dân sự bán không được, thì nhà nước mua thu cả lấy mà bán. Những người con buôn ai cần phải vay tiền thì cho vay, rồi cứ tính theo lệ nhà nước mà trả tiền lãi.

Việc binh chính:

1. Phép bảo giáp là lấy dân làm lính. Chia ra 10 nhà làm một bảo, 500 nhà làm một đô bảo. Mỗi bảo có đặt hai người chánh phó để dạy dân luyện tập võ nghệ.

2. Phép bảo mã là nhà nước giao ngựa cho các bảo phải nuôi, có con nào chết thì dân phải theo giá đã định mà bồi thường lại.

Khi năm phép ấy thi hành ra thì dân nước Tàu đều lấy làm oán giận, vì trái với chế độ và phong tục cũ.

Vương An Thạch lại có ý muốn lập công ở ngoài biên, để tỏ cái công hiệu việc cải tổ của mình. Bấy giờ ở Ung Châu có quan tri châu là Tiêu Chú biết ý Vương An Thạch, mới làm sớ tâu về rằng: nếu không đánh lấy đất Giao Châu thì về sau thành ra một điều lo cho nước Tàu.

Vua nhà Tống nghe lời tâu ấy, sai Tiêu Chú kinh lý việc đánh Giao Châu. Nhưng Tiêu Chú từ chối, lấy việc ấy làm khó, đương không nổi. Nhân lúc ấy lại có Thẩm Khởi tâu bày mọi lẽ nên đánh Giao Châu, vua nhà Tống bèn sai Thẩm Khởi làm tri châu Châu Quế. Thẩm Khởi ra thu xếp mọi việc theo ý Vương An Thạch, nhưng sau không biết tại lẽ gì phải bãi về. Tống triều cho Lưu Gi ra thay.

Lưu Gi sai người đi biên các khe ngòi, các đồn lũy, sửa binh khí, làm thuyền bè và lại cấm không cho người ở châu huyện gần đấy đi lại buôn bán với người Giao Châu.

Bên Lý triều ta thấy sự tình như thế mới viết thư sang hỏi Tống triều, thì Lưu Gi lại giữ lại không đệ về kinh. Lý triều tức giận, bèn sai Lý thường Kiệt và Tôn Đản đem 10 vạn binh chia ra làm 2 đạo, thủy bộ cùng tiến sang đánh nhà Tống, lấy cớ rằng nhà Tống đặt ra phép mới làm khổ trăm họ. Vậy quân Đại Việt sang đánh để cứu vớt nhân dân…

Năm Ất Mão (1075) Lý Thường Kiệt đem quân sang vây đánh Khâm Châu và Liêm Châu (thuộc tỉnh Quảng Đông). Đạo quân của Tôn Đản đánh Ung Châu (tức là thành Nam Ninh thuộc tỉnh Quảng Tây), quan Đô giám Quảng Tây là Trương Thủ Tiết đem binh lại cứu Ung Châu, bị Lý Thường Kiệt đón đánh ở Côn Lôn quan (gần Nam Ninh) chém Trương Thủ Tiết ở trận tiền.

Tôn Đản vây thành Ung Châu hơn 40 ngày, quan tri châu là Tô Đam kiên cố giữ mãi. Đến khi quân nhà Lý hạ được thành, thì Tô Đam bắt người nhà tất cả 36 người chết trước, rồi tự thiêu mà chết.

5. Nhà Tống lấy đất Quảng Nguyên

Tống triều được tin quân nhà Lý sang đánh phá ở châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, lấy làm tức giận lắm, bèn sai Quách Quý làm Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem 9 tướng quân cùng hội với nước Chiêm Thành và Chân Lạp chia đường sang đánh nước Nam ta.

Tháng Chạp năm Bính Thìn (1076) quân nhà Tống vào địa hạt nước ta. Lý triều sai Lý Thường Kiệt đem binh đi cự địch. Thường Kiệt đánh chặn quân nhà Tống ở sông Như Nguyệt (làng Như Nguyệt ở Bắc Ninh, tức là sông Cầu bây giờ). Quân nhà Tống đánh trận ấy chết hơn 1.000 người. Quách Quỳ tiến quân về phía tây, đến đóng ở bờ sông Phú Lương (sách “Khâm định Việt sử” có chép rằng sông Phú Lương là con sông đi từ Bạch Hạch qua Nam Định rồi chảy ra bể, tức là sông Hồng Hà. Nhưng xem trận thế bấy giờ và xét ở trong địa lý thì sông Phú Lương chép ở đây chính là sông Cầu).

Lý Thường Kiệt đem binh thuyền lên đón đánh không cho quân Tống sang sông. Quân Tống mới chặt gỗ làm máy bắn đá sang như mưa, thuyền của ta thủng nát mất nhiều, quân sĩ chết hàng mấy nghìn người. Lúc bấy giờ quân nhà Tống đánh hăng lắm, Lý Thường Kiệt hết sức chống giữ, nhưng sợ quân mình có ngã lòng chăng, bèn đặt ra một chuyện nói rằng có thần cho bốn câu thơ:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thưNhư hà nghịch lỗ lai xâm phạmNhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Quân lính nghe đọc mấy câu thơ ấy, ai nấy đều nức lòng đánh giặc, quân nhà Tống không tiến lên được. Hai bên cứ chống giữ mãi. Lý triều sợ đánh lâu không lợi, bèn sai sứ sang Tống xin hoãn binh.

Vua Tống thấy quân mình không tiến lên được, mà lại đóng ở chỗ chướng địa, quân sĩ trước sang hơn 8 vạn, sau chết đến quá nửa, cho nên cũng thuận hoãn binh lui về, chiếm giữ châu Quảng Nguyên (bây giờ là châu Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng), châu Tư Lang (bây giờ là châu Thượng Lang và Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng), châu Tô, châu Mậu (ở giáp giới tỉnh Cao Bằng và tỉnh Lạng Sơn) và huyện Quảng Lang (Ôn Châu, tỉnh Lạng Sơn).

Đến năm Mậu Ngọ (1078) Lý Nhân Tông sai Đào Tôn Nguyên đưa voi sang cống nhà Tống và đòi lại những châu huyện ở mạn Quảng Nguyên. Vua Tống bắt phải trả những người châu Khâm, châu Liêm và châu Ung mà quân nhà Lý bắt về ngày trước, rồi mới trả châu huyện cho nhà Lý. Sang năm Kỷ Mùi (1079) Nhân Tông cho những người Tàu về nước, tất cả có 221 người. Con trai thì thích ba chữ vào trán, từ 15 tuổi trở lên thì thích: Thiên tử binh; 20 tuổi trở lên thì thích: Đầu Nam triều; còn con gái thì thích vào tay trái hai chữ: Quan khách.

Đất Quảng Nguyên tự khi bọn Quách Quỳ lấy được, cải tên là Thuận Châu và có 3.000 quân Tống ở lại giữ, nhưng vì đất lam chướng, mười phần chết đến năm sáu.

Đến khi nhà Lý cho những người châu Khâm, châm Liêm và châu Ung về Tàu, vua nhà Tống trả lại châu Quảng Nguyên. Nhưng vì có người nói rằng, châu ấy có nhiều vàng, người Tống tiếc của, làm hai câu thơ rằng:

Nhân tham Giao Chỉ tượng,Khước thất Quảng Nguyên kim.

Đến mùa hạ năm Giáp Tý (1084) Nhân Tông sai quan binh bộ Thị lang là Lê Văn Thịnh sang nhà Tống bàn việc chia địa giới. Lê Văn Thịnh phân giải mọi nhẽ, nhà Tống trả nốt cả mấy huyện mà trước còn giữ lại. Từ đó nước ta và nước Tàu lại thông sứ như cũ.

Năm Đinh Mão (1087) vua nhà Tống phong cho Nhân Tông là Nam Bình Vương.

Nhà Tống bấy giờ đã suy nhược, đến năm Bính Ngọ (1126) nước Kim (Mãn Châu sang lấy mất cả phía bắc nước Tàu, nhà Tống dời đô về đóng ở Hàng Châu (thuộc Chiết Giang) gọi là Nam Tống.

6. Đánh Chiêm Thành

Nước Chiêm Thành thỉnh thoảng lại sang quấy nhiễu, đánh thế nào cũng không được. Năm Ất Mão (1075) trước khi đi đánh nhà Tống, Lý Thường Kiệt đã sang đánh Chiêm Thành, vẽ được địa đồ ba chau của Chế Củ đã nhường ngày trước, rồi cho người sang ở.

Năm Quý Mùi (1103) ở Diễn Châu (thuộc Nghệ An) có Lý Giác làm phản. Lý Thường Kiệt vào đánh. Lý Giác thua chạy sang Chiêm Thành đem quốc vương là Chế Ma Na sang đánh lấy lại ba châu Ma Linh, Bố Chính… Sang năm sau là năm Giáp Thân (1104) vua Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt vào đánh Chiêm Thành. Chế Ma Na thua chạy xin trả lại ba châu như cũ.

Lý Thường Kiệt bấy giờ đã ngoài 70 tuổi đi đánh Chiêm Thành về được một năm thì mất. Ông là người ở phường Thái Hòa, huyện Thọ Xương (thành phố Hà Nội), có tướng tài, tinh thao lược, bắc đánh Tống, nam bình Chiêm, thật là một người danh tướng nước ta vậy.

Từ khi bình phục được nước Chiêm Thành rồi, các nước ở phía nam đều về triều cống. Nhân Tông làm vua đến năm Đinh Mùi (1127) thì mất, trị vì được 56 năm, thọ 63 tuổi.