Yếu tố lỗi trong luật hình sự? Có những loại hình thức lỗi nào?

Đối với xác định trách nhiệm hình sự thì việc xác định các yếu tố về lỗi là rất quan trọng, tùy từng trường hợp và tình huống để xác định xem lỗi thuộc loại nào và lỗi cũng là yếu tố để cấu thành tội phạm. Vậy yếu tố lỗi trong luật hình sự được hiểu như thế nào? Có những loại hình thức lỗi nào? Bài viết dưới đây chúng tôi xin hướng dẫn cụ thể hơn cho bạn đọc nhé.

Cơ sở pháp lý: Bộ luật hình sự 2015

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568

1. Yếu tố lỗi trong luật hình sự:

Như chúng ta đã biết thì đối với mỗ một tội trên thực tế sẽ căn cứ dụa trên yếu tố lỗi có thể nói đây chính là một trong những dấu hiệu quan trọng trong mặt chủ quan, là nội dung cơ bản thể hiện mặt chủ quan của cấu thành tội phạm, không xác định được lỗi thì không thể cấu thành tội phạm.

Nếu chúng ta xét lỗi dựa trên mặt chủ quan của tội phạm được biểu hiện thông qua ba yếu tố cụ thể như đối với lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội.

“Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như khả năng gây ra hậu quả từ hành vi đó”.

Nếu chúng ta xét yếu tố lỗi dựa trên mặt chủ quan của tội phạm được biểu hiện thông qua ba yếu tố cụ thể bao gồm các yếu tố lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội trong đó thì dấu hiệu lỗi là dấu hiệu quan trọng nhất, là nội dung cơ bản thể hiện mặt chủ quan của cấu thành tội phạm, không xác định được lỗi thì không thể cấu thành tội phạm. Yếu tố lỗi được xác định theo pháp luật hình sự khi hội tụ đủ 02 điều kiện cụ thể như sau:

– Không mắc bệnh tâm thần, các bệnh làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi (tức là không bị mất năng lực hành vi)

– Đạt độ tuổi theo quy định hiện hành:

” Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự với mọi tội phạm.

Xem thêm: Mức hình phạt tại Khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015

Người từ đủ 14 tuổi trở lên mà chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự vè tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.

Ví dụ: A và B có mâu thuẫn với nhau trong chuyện tình cảm, A đã ra tay sát hại B rồi tìm cách tự sát theo B nhưng do có người phát hiện kịp thời nên A không thể thực hiện hành vi tự sát của mình để 2 người được bên nhau mãi theo ý định ban đầu của A. Hành vi của A là trái pháp luật hình sự (căn cứ theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội giết người). Đây là kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của A trong khi A có thể lựa chọn và quyết định khác không trái pháp luật để giải quyết mâu thuẫn của mình (A đã chấm dứt sự sống của B). Như vậy trong hành vi gây ra hậu quả này, A là người có lỗi.

Đẻ hiểu hơn về vấn đề này ta có thể thấy rằng khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội họ cần phải thoả mãn hai điều kiện cụ thể đó là không mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi. Đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự cụ thể.

Tội phạm tuy có chung các dấu hiệu nhưng những hành vi phạm tội cụ thể có tính nguy hiểm cho xã hội rất khác nhau. Sự khác nhau đó xuất phát từ nhiều cơ sở, có thể là nguyên nhân, điều kiện phát sinh phạm tội, tính chất của khách thể bị xâm hại, tính nguy hiểm của hành vi phạm tội…Trong đó phải kể đến một yếu tố hết sức quan trọng là yếu tố chủ quan. Nó là cơ sở làm tiền đề cho việc triển khai và thực hiện có hiệu quả nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự, đảm bảo áp dụng hình phạt đạt hiệu quả.

2. Có những loại hình thức lỗi nào?

Căn cứ dựa trên quy định của pháp luật hình sự, cụ thể theo Điều 10, Điều 11 Bộ luật Hình sự năm 2015 lỗi được chia thành 04 loại: lỗi cố ý trực tiếp và cấu thành nên lỗi cố ý gián tiếp, lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả. Để tiện cho việc tìm hiểu và phân biệt các lỗi, chúng tôi sẽ so sánh các lỗi này cụ thể các loại lôi dưới đây cụ thể như sau:

Tiêu chí Cố ý trực tiếp Cố ý gián tiếp Vô ý do cẩu thả Vô ý vì quá tự tin Căn cứ pháp lý Khoản 1 Điều 10 Bộ Luật Hình sự 2015 Khoản 2 Điều 10 Bộ luật Hình sự năm 2015 Khoản 2 Điều 11 Bộ luật Hình sự 2015 Khoản 1 Điều 11 Bộ luật Hình sự 2015 Khái niệm Lỗi cố ý trực tiếp được hiểu là khi người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được Về mặt lý trí Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hành vi đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hành vi đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội Phải thấy trước hậu quả nhưng lại không thấy trước được hậu quả đó Nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thể hiện ở việc họ thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội mà hành vi của mình có thể gây ra Về mặt ý chí Sự lựa chọn hành vi phạm tội là sự lựa chọn duy nhất, chủ thể lựa chọn hành vi phạm tội vì chủ thể mong muốn hành vi đó Người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra, tức hậu quả xảy ra không phù hợp với mục đích phạm tội. Tuy nhiên để thực hiện mục đích này, người phạm tội để mặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình có thể gây ra Người phạm tội khi thực hiện hành vi đáng ra phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội sẽ xảy ra Người phạm tội không mong muốn hành vi của mình sẽ gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội. Tuy nhiên hậu quả nguy hại cho xã hội đã xảy ra và nằm ngoài dự tính của họ Nguyên nhân Có sự cố ý Có sự cố ý Do sự cẩu thả Do quá tự tin vào khả năng của mình Ví dụ C và D xảy ra mâu thuẫn, C dùng dao đâm D với ý muốn giết D. Rõ ràng C ý thức được việc mình làm là nguy hiểm và mong muốn hậu quả chết người người xảy ra. B giăng lưới điện để chống trộm đột nhập nhưng không có cảnh báo an toàn dẫn đến chết người. Dù B không mong muốn hậu quả chết người xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc hậu quả xảy ra nên đây là lỗi cố ý gián tiếp A là kế toán doanh nghiệp, khi nhập dữ liệu, A đã sơ ý bỏ sót một số 0 trong số tiền cần chuyển cho đối tác, hành vi này của A đã khiến công ty thiệt hại, trong trường hợp này, A là kế toán và phải biết được chỉ một hành vi sơ xuất cũng sẽ gây ra những hậu quả không mong muốn. A là bác sĩ muốn áp dụng pháp đồ điều trị mới cho B. Mặc dù biết rằng việc thử nghiệm việc điều trị với B có thể gây ra hậu quả chết người những A cho rằng mình kiểm soát được toàn bộ quá trình điều trị. Tuy nhiên,do phản ứng thuốc, B chết. Trường hợp này, A có lỗi vô ý vì quá tự tin.