Những vấn đề cơ bản về pháp luật

1

BÀI 2 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT

GIỚI THIỆU

Pháp luật là công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện quyền lực của mình. Chính vì vậy, pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia. Bài học này sẽ cung cấp tới các anh chị kiến thức nền tảng về pháp luật như sự ra đời của pháp luật, khái niệm, đặc điểm của pháp luật, mối quan hệ giữa pháp luật với Nhà nước, kinh tế và đạo đức, các hình thức pháp luật.

2

PHẦN I: KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT

GIỚI THIỆU

Trong phần này, anh/chị sẽ nắm được khái niệm, nguồn gốc của pháp luật, Đặc trưng của pháp luật, bản chất của pháp luật, vai trò của pháp luật và quan hệ của pháp luật đối với các lĩnh vực khác của xã hội, hình thức của pháp luật và hệ thống pháp luật

NỘI DUNG BÀI HỌC

1. Khái niệm và nguồn gốc pháp luật

1.1. Khái niệm pháp luật

Cũng như nhà nước, đang tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về pháp luật như: Pháp luật là ý muốn của Thượng đế; pháp luật là phương tiện để quản lý xã hội (pháp luật gắn liền vứi xã hội, ở đâu có xã hội thì ở đó có pháp luật); pháp luật là những tiêu chuẩn căn bản mà mọi người phải tuân theo để quản lý xã hội và trừ khử những điều gian tà, bất chính trong xã hội; pháp luật là công lý đại diện cho sự công bằng xã hội, bảo vệ lợi ích cho tất cả mọi người trong xã hội; pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật;…

Các quan điểm hiện đại đều cho rằng, pháp luật công cụ pháp lý xã hội ra đời khi xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định, xã hội trở nên phức tạp, đặc biệt một trình đọ nhất định, xã hội trở nên phức tạp, đặc biệt là khi trong xã hội có sự phân hóa thành các giai cấp có lợi ích đói lập nhau, các công cụ pháp lý xã hội khác như tập quán, đạo đức, tính điều tôn giáo … không còn đủ khả năng duy trì được trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Trong những điều kiện như vậy, nhà nước đã ban hành ra pháp luật (thừa nhận những quy định đã có trong xã hội là pháp luật và bảo đảm cho chúng được thực hiện, nhà nước còn tiến hành đặt ra những quy định pháp luật mới) để tổ chức và quản lý xã hội vừa để bảo vệ lợi ích của xã hội vừa để bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền.

Theo nghĩa hẹp, pháp luật gồm các quy định mà phần lớn là các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội vì lợi ích cảu cả xã hội và vì lợi ích của giai cấp thống trị.

Theo nghĩa rộng, pháp luật không chỉ gồm các quy tắc xử sự chung mà còn bao hàm cả các nguyên tắc xử sự, các tư tưởng, học thuyết pháp lý … được thể hiện ở các loại nguồn pháp luật khác nhau.

Thông thường, pháp luật được hiểu khái quát như sau: Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung, do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể hiện ý chí của nhà nước, là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội

4

giai cấp thống trị, nhằm bảo vệ mục đích củng cố và bảo vệ trật tự xã hội mà chúng mong muốn. Bằng sự thừa nhận của nhà nước, các tập quán đã trở thành các quy tắc sử sự chung, đó là quy phạm pháp luật.

Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của sự phân công lao động và người lao động ngày càng tăng đã xuất hiện nhiều mối quan hệ phát sinh trong xã hội đòi hỏi nhà nước phải có những quy phạm mới để điều chỉnh. Vì vậy, hoạt động xây dựng pháp luật đã được tiến hành vào thời kỳ sớm nhất sau khi nhà nước ra đời. Hệ thống pháp luật được hình thành dần cùng với sự phát triển của các nhà nước và hoạt động xây dựng pháp luật của các cơ quan trung ương. Như vậy, pháp luật ra đời cùng với nhà nước, không tách rời nhà nước và đều là sản phẩm của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp

1.1.2. Quan điểm của một số học giả Âu – Mỹ về nguồn gốc của pháp luật

  • Quan niệm pháp luật của trường phái pháp luật thực chứng
  • Pháp luật là những gì xuất phát từ nhà nước, có nguồn gốc nhà nước. pháp luật phải do con người tạo ra. pháp luật đơn thuần chỉ là những nguyên tắc có tính ràng buộc do nhà nước tạo ra và thừa nhận sự trái với đạo đức, công lý không làm mất đi hiệu lực của pháp luật.

  • Pháp luật là hệ thống chuẩn mực có thứ bậc và có chế tài.

  • Quan niệm về pháp luật theo thuyết xã hội học pháp luật
  • Pháp luật không có sẵn trong tự nhiên hay được gói trong các văn bản pháp luật có nguồn gốc từ chính cuộc sống. pháp luật không bất biến mà thay đổi theo xã hội, trước đây là trừng phạt, nay là bồi hoàn và hài hòa xã hội, thiết kế xã hội.

  • Pháp luật là công cụ để giải quyết các vấn đề xã hội, nâng lên thành các chuẩn mực chung

  • Pháp luật có chức năng tạo sự đồng thuận xã hội (vì xã hội luôn có sự mâu thuẫn, xung khắc nhau về lợi ích)

  • Cuộc sống mới là nguồn gốc thực sự của pháp luật, pháp luật không xuất phát từ cuộc sống thì sẽ “chết”

  • Trường phái này đánh giá cao vai trò của thẩm phán trong việc tạo ra pháp luật

  • Trường phái pháp luật lịch sử Từ quan điểm của Thibaut về pháp điển hóa luật ở Đức => ra đời trường phái pháp luật lịch sử
  • Pháp luật chịu sự ràng buộc bởi điều kiện lịch sử, văn hóa, xã hội. Vì vậy muốn hiểu luật pháp phải thông qua lịch sử, tức là hiểu luật pháp trong một quá trình phát triển

5

  • Pháp luật có nguồn gốc từ lịch sử (PL muốn tồn tại phải có yếu tố nội sinh, phù hợp với điều kiện sống, tập quán của dân tộc)

=> Mỗi quốc gia, dân tộc có một hình thái pháp luật riêng

1. Các đặc trưng của pháp luật

– Pháp luật có tính quy phạm phổ biến

“Quy phạm” theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là khuôn mẫu, chuẩn mực hay mực thước. Các quy định của pháp luật chính là những khuôn mẫu, chuẩn mực định hướng cho hành vi, xử sự của mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, các tổ chức và cá nhân trong xã hội sẽ biết mình được làm gì, không được làm gì, phải làm gì và làm như thế nào khi ở vào một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. Ví dụ, căn cứ vào quy định của Luật Giao thông đường bộ, người tham gia giao thông sẽ biết mình được làm gì, không được làm gì, phải làm gì khi tham gia giao thông trên đường bộ. Cụ thể, căn cứ vào khoản 1 Điều 9 Luật Giao thông đường bộ năm 2008, người tham gia giao thông biết mình cần phải “đi bên phải theo chiều đi của mình, đi đúng làn đường, phần đường quy định và phải chấp hành hệ thống báo hiệu đường bộ”. Pháp luật phải được tôn trọng và thực hiện thường xuyên, trên toàn lãnh thổ, không ngoại trừ bất cứ tổ chức, cá nhân, khu vực lãnh thổ nào.

– Pháp luật có tính khách quan

Muốn pháp luật phát huy được hiệu lực thì nó phải phù hợp với những điều kiện cụ thể của xã hội. Ơ thời điểm tồn tại của nó, pháp luật phải phản ánh đúng những nhu cầu khách quan của xã hội

– Pháp luật có tính xác định về hình thức

Phong tục tập quán, đạo đức không có tính xác định về mặt hình thức vì chúng tồn tại dưới dạng bất thành văn, thường lưu truyền từ đời này sang đời khác theo hình thức truyền miệng. Trái lại, pháp luật luôn có tính xác định về mặt hình thức, bởi vì, pháp luật thường được thể hiện trong những hình thức nhất định, có thể là tập quán pháp, tiền lệ pháp hoặc văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật lại có những hình thức cụ thể như Hiến pháp, luật, nghị định, nghị quyết… Mỗi loại văn bản do những cơ quan có thẩm quyền ban hành theo những trình tự, thủ tục nhất định được quy định chặt chẽ trong luật.

– Pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng Nhà nước

Trong số các loại quy phạm xã hội thì chỉ pháp luật mới được hình thành bằng con đường nhà nước, tức là do nhà nước ban hành và cũng chỉ có pháp luật mới được nhà nước bảo đảm thực hiện. Nhà nước là chủ thể duy nhất trong xã hội có quyền ban hành pháp luật để quản lý xã hội. Nhà nước ban hành pháp luật thông qua việc thừa nhận các quy tắc khác trong xã hội như phong tục tập quán, các quy tắc đạo đức, các

7

tự và phát triển. Thêm vào đó, trong đời sống của mỗi cộng đồng, do đòi hỏi của quan hệ giao tiếp giữa mọi người tất yếu sẽ hình thành các thói quen, các quy tắc, các chuẩn mực ứng xử có tính chất chân lý, thể hiện ý chí chung của các thành viên trong cộng đồng, được sự chấp thuận và tuân thủ tự giác của cả cộng đồng xã hội. Những quy tắc, chuẩn mực này khi được nhà nước nâng lên thành luật thì sẽ thể hiện ý chí chung của cả cộng đồng.

Tính xã hội của pháp luật còn thể hiện ở chỗ pháp luật là công cụ để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập, củng cố và bảo vệ trật tự chung trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo vệ lợi ích chung của toàn quốc gia, dân tộc, vì sự phát triển chung của toàn xã hội. Pháp luật là công cụ đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ những công trình và những giá trị văn hoá, tinh thần chung của cộng đồng, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, bảo vệ con người và môi trường sống,…

Tóm lại: Tính giai cấp và tính xã hội là thuộc tính chung của pháp luật, tuy nhiên pháp luật của các nhà nước khác nhau sẽ khác nhau ở những biểu hiện cụ thể và tương quan giữa mức độ thể hiện của hai thuộc tính này. Chẳng hạn, pháp luật phong kiến Việt Nam là sự thể hiện ý chí của giai cấp địa chủ, quý tộc phong kiến, nhằm bảo vệ lợi ích, quyền và địa vị thống trị của lực lượng này; đồng thời điều chỉnh các quan hệ xã hội theo hướng nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội phong kiến. Do vậy, tính giai cấp của pháp luật phong kiến thể hiện rất công khai và rõ rệt, còn tính xã hội của nó thể hiện một cách mờ nhạt và hạn chế. Pháp luật của Nhà nước ta hiện nay là sự thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và những người lao động khác, là sự thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng cộng sản nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo hướng thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, tính xã hội của pháp luật nước ta hiện nay được thể hiện rất rộng rãi và vượt trội hơn nhiều so với tính giai cấp.

1. Vai trò của pháp luật

Với bản chất những đặc điểm đặc thù của mình, pháp luật có nhiều vai trò trong đời sống nhà nước, đời sống xã hội, trong đó có những vai trò cơ bản là:

Thứ nhất, Pháp luật là cơ sở để thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước

Một trong những nguyên lý đã được khẳng định là nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật và pháp luật không thể phát huy hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh của bộ máy nhà nước. Trong khoa học có những ý kiến nhấn mạnh ý nghĩa tuyệt đối của quyền lực nhà nước, coi đó là cái phát sinh cái thứ nhất, còn pháp luật chỉ là cái phái sinh (cái thứ hai); hoặc coi pháp luật đứng trên nhà nước, nhà nước phải tuyệt đối phục tùng pháp luật… là chưa có cơ sở xác đáng, bởi vì:

  • Thứ nhất, đúng là pháp luật do nhà nước ban hành, nhưng pháp luật không phải chỉ là kết quả của tư duy chủ quan một cách đơn thuần, mà nó còn xuất phát từ những nhu

8

cầu khách quan của xã hội. Pháp luật chỉ có thể đi vào cuộc sống nếu như nó phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội.

  • Thứ hai, pháp luật cũng còn cần có quyền lực nhà nước bảo đảm mới có thể phát huy tác dụng trong thực tế đời sống. Vì vậy nói pháp luật đứng trên nhà nước là không thực tiễn.

  • Thứ ba, nhu cầu về pháp luật còn là nhu cầu tự thân của bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước là một thiết chế phức tạp hao gồm nhiều bộ phận (nhiều loại cơ quan nhà nước).

Để bộ máy đó hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi loại cơ quan, mỗi cơ quan; phải xác lập mối quan hệ đúng đắn giữa chúng; phải có những phương pháp tổ chức và hoạt động phù hợp để tạo ra một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực thi quyền lực nhà nước. Tất cả những điều đó chỉ có thể thực hiện được khi dựa trên cơ sở vững chắc của những nguyên tắc và quy định cụ thể của pháp luật.

Thực tiễn cho thấy, khi chưa có một hệ thống quy phạm pháp luật về tổ chức đầy đủ, đồng bộ, phù hợp và chính xác để làm cơ sở cho việc củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước thì dễ dẫn đến tình trạng trùng lặp, chồng chéo, thực hiện không đúng chức năng, thẩm quyền của một số cơ quan nhà nước, bộ máy sẽ sinh ra cồng kềnh và kém hiệu quả.

Tương tự như trên, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi loại cán bộ, mỗi cán bộ làm việc trong từng cơ quan cụ thể của bộ máy nhà nước. Nhờ có pháp luật, các hiện tượng lạm quyền, bao biện, vô trách nhiệm… của đội ngũ viên chức nhà nước dễ dàng được phát hiện và loại trừ.

Thứ hai, Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý kinh tế, xã hội Nhà nước là đại diện chính thức của toàn thể xã hội, vì vậy, nhà nước có chức năng (nhiệm vụ) quản lý toàn xã hội. Để quản lý toàn xã hội, nhà nước dùng nhiều phương tiện, nhiều biện pháp, nhưng pháp luật là phương tiện quan trọng nhất. Với những đặc điểm riêng của mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách nhanh nhất, đồng bộ và có hiệu quả nhất trên quy mô rộng lớn nhất. Cũng nhờ có pháp luật, nhà nước có cơ sở để phát huy quyền lực của mình và kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của các tổ chức, các cờ quan, các nhân viên nhà nước và mọi công dân.

Trong tổ chức và quản lý kinh tế, pháp luật lại càng có vai trò lớn. Bởi vì, chức năng tổ chức và quản lý kinh tế của nhà nước có phạm vi rộng và phức tạp, bao gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ mà nhà nước cần xác lập, điều hành và kiểm soát như hoạch định chính sách kinh tế, xác định chỉ tiêu kế hoạch, quy định các chế độ tài chính, tiền tệ, giá… Toàn bộ quá trình tổ chức và quản lý đều đòi hỏi sự hoạt động tích

10

Thứ tư, Pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia

Có một thực tế là, một thể chế chính trị có thể thay đổi, nghĩa là quyền lực của một bộ máy nhà nước trong một thời kỳ lịch sử nhất định có thể thay đổi, nhưng nhân dân và quyền lực nhân dân vẫn tồn tại và phát triển. Những quan hệ đa chiều trong xã hội vẫn phát triển và đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng pháp luật để bảo đảm sự ổn định trật tự. Vì vậy, quyền lực nhân dân là vấn đề căn bản; trật tự xã hội là đòi hỏi khách quan và những nhu cầu về pháp luật là luôn luôn có.

Pháp luật và nhà nước luôn có quan hệ mật thiết với nhau “như hình với bóng”. Nhưng đó là nói ở góc độ chung. Khi tiếp cận ở góc độ cụ thể, pháp luật có những nét riêng căn bản. Đó là khi pháp luật phản ánh đúng những lợi ích của dân tộc, của nhân dân thì dù chế độ nhà nước nào cũng phải tôn trọng. Nếu đi ngược lại điều đó là ngược với lợi ích của dân tộc, của nhân dân và sẽ bị nhân dân phản đối, không tôn trọng, không chấp hành. Xét ở góc độ này, pháp luật luôn có vai trò giữ gìn sự ổn định và trật tự xã hội. Sự ổn định của mỗi quốc gia là điều kiện quan trọng để tạo ra niềm tin, là cơ sở để mở rộng các mối bang giao với các thuốc khác. Trong thời đại ngày nay, phạm vi của các mối quan hệ bang giao giữa các nước ngày càng lớn và nội dung tính chất của các quan hệ đó ngày càng đa diện (nhiều mặt). Cơ sở cho việc thiết lập và củng cố các mối quan hệ bang giao đó là pháp luật (pháp luật quốc tế và pháp luật nội quốc) Xuất phát từ nhu cầu đó, hệ thống pháp luật của mỗi nước cũng có bước phát triển mới:

Bên cạnh những văn bản pháp luật quy định và điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan đến các chủ thể pháp luật trong nước còn cần có đầy đủ các văn bản pháp luật quy định và điều chỉnh các quan hệ có liên quan đến các chủ thể là người (tổ chức) nước ngoài có quan hệ hợp tác với các chủ thể trong nước, ví dụ: luật đầu tư, luật về khoa học và công nghệ…

1. Quan hệ của pháp luật với các lĩnh vực khác của xã hội

1.5. Mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế

Pháp luật là yếu tố trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp, do đó mà pháp luật được sinh ra trên cơ sở hạ tầng và quy định bởi cơ sở hạ tầng.

Trong mối quan hệ với kinh tế, pháp luật có tính độc lập tương đối. Một mặt, pháp luật phụ thuộc vào kinh tế, mặt khác pháp luật lại có sự tác động trở lại một cách mạnh mẽ đối với kinh tế.

Sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế thể hiện ở chỗ nội dung của pháp luật là do các quan hệ kinh tế – xã hội quyết định, chế độ kinh tế là cơ sở của pháp luật. Pháp luật luôn luôn phản ánh trình độ phát triển của chế độ kinh tế.

11

Pháp luật có sự tác động trở lại đối với sự phát triển của kinh tế. Sự tác động đó có thể là tích cực cũng có thể là tiêu cực. Khi nào pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội, phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế thì pháp luật có nội dung tiến bộ và có tác dụng tích cực. Ngược lại, nó sẽ có nội dung tiêu cực và kìm hãm sự phát triển của kinh tế, xã hội.

1.5. Mối quan hệ giữa pháp luật và Nhà nước

Theo quan điểm Mácxít, Nhà nước và pháp luật là hai bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng có quan hệ chặt chẽ nhau. Nhà nước không thể tồn tại và phát huy quyền lực nếu thiếu pháp luật. Ngược lại, pháp luật

1.5. Mối quan hệ giữa pháp luật với các quy phạm xã hội

Đạo đức là tổng thể những quan điểm, quan niệm của con người về cái đẹp, c ái thiện, cái ác, về sự công bằng, nghĩa vụ, danh dự và về những phạm trù khác nhau của đời sống tinh thần của xã hội. Những quan điểm, quan niệm này rất khác nhau do những điều kiện của đời sống vật chất quyết định. Đạo đức khi đã trở thành niềm tin nội tâm thì chúng sẽ là cơ sở cho hành vi của con người. Quy phạm đạo đức tồn tại trong xã hội có rất nhiều loại và có tác dụng điều chỉnh hành vi con người. Giai cấp thống trị có quyền lực Nhà nước trong tay thể hiện quan điểm, quan niệm của mình lên thành pháp luật. Vì vậy, pháp luật luôn phản ánh đạo đức của lực lượng cầm quyền. Tất nhiên, nó phải phù hợp với các lực lượng khác trong xã hội. Đó cũng chính là một trong những điều kiện đảm bảo cho quyền lực của giai cấp thống trị được bền vững.

Pháp luật chịu sự tác động của đạo đức và các quy phạm xã hội khác, nhưng pháp luật có tác động rất mạnh mẽ tới các hiện tượng đó và ở một chừng mực nhất định, pháp luật còn có khả năng cải tạo các quy phạm đạo đức và xã hội.

Tuy vậy, giữa pháp luật và đạo đức có những khác biệt về phương pháp điều chỉnh hành vi con người. Pháp luật điều chỉnh hành vi con người bằng tính chất bắt buộc phải tuân thủ, nếu bất tuân sẽ bị cưỡng chế. Còn đạo đức điều chỉnh hành vi con người bằng chính sự tự nguyện khi bản thân nhận thấy điều nên làm với áp lực của niềm tin nội tâm.

Về mục đích, pháp luật đặt ra những quy tắc để áp dụng cho mọi người nhằm giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các thành viên trong xã hội. Còn các quy tắc đạo đức là những quy phạm mang tính khuyên răn nhằm hoàn thiện cá nhân, mặc dù về mục đích sau cùng, chúng giống nhau là để bảo đảm trật tự xã hội.

Về chế tài, pháp luật có chế tài bằng sự trừng phạt trực tiếp và trừng phạt ngay trong hiện tại còn các quy phạm đạo đức không mang tính quyền lực bắt buộc nên sự tuân theo hay không tùy theo sự xét đoán của từng người và sự tự giác thực hiện các hành vi đạo đức bằng niềm tin nội tâm qua áp lực của dư luận xã hội.

13

để xác định các quy định pháp luật cùng thuộc một ngành luật là đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh, tức là căn cứ vào các đặc điểm cùng tính chất của quan hệ xã hội được điều chỉnh và cách thức tác động lên gC quan hệ xã hội đó. Nói một cách khác, các ngành luật khác nhau ở đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh, trong đó đối tượng điều chỉnh có vai trò chủ chốt và phương pháp điều chỉnh có tác dụng bổ trợ.

1.6.2. Chế định pháp luật

Chế định pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội gần gũi. có cùng tính chất trong phạm vi mỗi ngành luật vốn bao gồm nhiều chế định.

Ví dụ: ngành luật dân sự có các chế định như chế định quyền sở hữu, chế định hợp đồng, chế định thừa kế, chế định quyền tác giả… Ngành luật hình sự có các chế định như các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân…

1.6.2. Quy phạm pháp luật

  • Khái niệm Con người sống trong một cộng đồng xã hội nhất định, vì vậy nhu cầu cần có các quy tắc xử sự để điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân trong xã hội hướng đến việc bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng cũng như của mỗi cá nhân trong xã hội. Khi chưa có nhà nước, các quy phạm xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi của con người. Khi nhà nước ra đời, nhà nước phải ban hành hệ thống các quy phạm pháp luật để quản lý xã hội. Quy phạm pháp luật chính là các quy tắc xử sự định hướng cho nhận thức và hướng dẫn cách xử sự hay các hành vi của cá nhân, tổ chức trong xã hội theo hướng nhằm đảm bảo một trật tự xã hội nhất định. Do đó: Quy phạm pháp luật là quy tắc hay chuẩn mực do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích của nhà nướcả định: là bộ phận quy định địa điểm, thời gian, chủ thể, các hoàn cảnh, tình huống có thể xảy ra trong thực tế mà nếu hoàn cảnh, tình huống đó xảy ra thì các chủ thể phải hành động theo quy tắc xử sự mà quy phạm đặt ra.

  • Các bộ ph ận của Quy phạm pháp luật:

Giả định

  • Khái niệm: Giả định là một phần của quy phạm pháp luật trong đó nêu ra những tình huống (hoàn cảnh, điều kiện) có thể xảy ra trong đời sống xã hội mà quy phạm pháp luật sẽ tác động đối với những chủ thể (tổ chức, cá nhân) nhất định, nói cách khác giả

14

định nêu lên phạm vi tác động của quy phạm pháp luật đối với cá nhân hay tổ chức nào? Trong những hoàn cảnh, điều kiện nào?

Chẳng hạn, Khoản 1 Điều 30 Luật Khiếu nại 2011 quy định: “1. Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần đầu, nếu yêu cầu của người khiếu nại và kết quả xác minh nội dung khiếu nại còn khác nhau thì người giải quyết khiếu nại tổ chức đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại; việc đối thoại phải tiến hành công khai, dân chủ.”. Phần giả định của quy phạm này là: “Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần đầu, nếu yêu cầu của người khiếu nại và kết quả xác minh nội dung khiếu nại còn khác nhau”.

  • Mục đích, ý nghĩa của giả định

Phần giả định của quy phạm pháp luật trả lời cho câu hỏi: Tổ chức, cá nhân nào? Trong những tình huống (hoàn cảnh, điều kiện) nào? Thông qua phần giả định của quy phạm pháp luật chúng ta biết được tổ chức, cá nhân nào? khi ở vào những hoàn cảnh, điều kiện nào? thì chịu sự tác động của quy phạm pháp luật đó. Việc xác định tổ chức, cá nhân nào và những hoàn cảnh, điều kiện nào để tác động là phụ thuộc vào ý chí của nhà nước.

  • Yêu cầu.

Những chủ thể, hoàn cảnh, điều kiện nêu trong phần giả định của quy phạm pháp luật phải rõ ràng, chính xác, sát với tình hình thực tế, tránh tình trạng nêu mập mờ, khó hiểu dẫn đến khả năng không thể hiểu được hoặc hiểu sai lệch nội dung của quy phạm pháp luật.

Trong phần giả định nêu phạm vi tác động của quy phạm pháp luật. Do vậy, khi xây dựng pháp luật cần phải dự kiến được mức tối đa những tình huống (hoàn cảnh, điều kiện) có thể xảy ra trong đời sống thực tế mà trong đó quan hệ xã hội cần phải được điều chỉnh bằng pháp luật.

Các tổ chức, cá nhân khi thực hiện pháp luật cần phải nhận thức thật chính xác xem chủ thể nào chịu sự tác động của quy phạm pháp luật đó. Chẳng hạn, Khoản 1 Điều 132 Bộ luật hình sự Việt Nam 2015 quy định: “Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.

Hoàn cảnh ở đây là: “người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng”, nhưng chủ thể chịu sự tác động của quy phạm này không phải là tất cả những người trong hoàn cảnh đó mà chỉ gồm những người: “tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết”.

16

Quy định

Quy định là một bộ phận của quy phạm pháp luật trong đó nêu cách xử sự mà tổ chức hay cá nhân ở vào hoàn cảnh, điều kiện đã nêu trong bộ phận giả định của quy phạm pháp luật được phép hoặc buộc phải thực hiện.

Bộ phận quy định của quy phạm pháp luật trả lời câu hỏi: Phải làm gì? Được làm gì? Không được làm gì? Làm như thế nào?

Ví dụ: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.” (Điều 33 Hiến pháp năm 2013). Bộ phận quy định của quy phạm là “có quyền tự do kinh doanh” (được làm gì).

Hoặc “Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này” (Điều 5 Bộ luật Dân sự năm 2015), bộ phận quy định của quy phạm là: “thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này”.

Mệnh lệnh được nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật có thể dứt khoát (chỉ nêu một cách xử sự và các chủ thể buộc phải xử sự theo mà không có sự lựa chọn. Ví dụ khoản 1, Điều 12 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên kết hôn phải chấm dứt quan hệ như vợ chồng.”).

Hoặc không dứt khoát (nêu ra 2 hoặc nhiều cách xử sự và cho phép các tổ chức hoặc cá nhân có thể lựa chọn cho mình cách xử sự thích hợp từ những cách xử sự đã nêu, ví dụ: Luật hôn nhân và Gia đình quy định: “Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn.; Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài”)

Chế tài

Chế tài là một bộ phận của quy phạm pháp luật nêu lên những biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến để đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh.

Các biện pháp tác động nêu ở bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật có thể sẽ được áp dụng với tổ chức hay cá nhân nào vi phạm pháp luật, không thực hiện đúng mệnh lệnh của Nhà nước đã nêu ở bộ phận quy định của quy phạm pháp luật.

Ví dụ: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07

17

năm.” (khoản 1, Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Bộ phận chế tài của quy phạm là “phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”

19

  • Quan hệ pháp luật được nhà nước bảo đảm thực hiện và có thể cả bằng biện pháp cưỡng chế. Trước hết, nhà nước bảo đảm thực hiện quan hệ pháp luật bằng biện pháp giáo dục thuyết phục. Bên cạnh đó nhà nước còn bảo đảm thực hiện pháp luật bằng biện pháp kinh tế, tổ chức – hành chính. Những biện pháp đó không có hiệu quả khi áp dụng, thì khi cần thiết nhà nước sử dụng biện pháp cưỡng chế.

  • Quan hệ pháp luật mang tính cụ thể. Bởi vì quan hệ pháp luật xác định cụ thể chủ thể tham gia quan hệ, nội dung các quyền và nghĩa vụ pháp lý.

2. Các yếu tố cấu thành quan hệ pháp luật

2.2. Chủ thể của quan hệ pháp luật

2.1.2. Khái niệm chủ thể của quan hệ pháp luật

Chủ thể của quan hệ pháp luật là những cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật có thể trở thành các bên tham gia thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ pháp luật cụ thể.

Trong một quan hệ pháp luật có ít nhất hai chủ thể hình thành hai bên tham gia. Cũng có thể có quan hệ pháp luật gồm nhiều chủ thể tham gia hình thành hai bên hoặc nhiều bên. Ví dụ: Hợp đồng mua bán giữa bên A và bên B hoặc A và B, C hoặc giữa A và B có C bảo lãnh.

Có những quan hệ pháp luật chỉ có những chủ thể đặc biệt được tham gia, như trong quan hệ tố tụng hình sự chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người có liên quan mới trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật này.

Nhưng có loại quan hệ pháp luật mà mọi cá nhân, tổ chức đều có thể trở thành chủ thể. Ví dụ: quan hệ pháp luật trong việc nhận thừa kế

2.1.2. Phân loại chủ thể của quan hệ pháp luật

Căn cứ vào tính chất pháp lý và đặc trưng của chủ thể, có thể phân chia chủ thể của quan hệ pháp luật thành các loại chính sau đây:

  • Chủ thể là cá nhân: Cá nhân muốn trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật phải có năng lực chủ thể – Năng lực chủ thể gồm có năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
  • Năng lực pháp luật là khả năng hưởng các quyền và nghĩa vụ pháp lý theo quy định của pháp luật để họ có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật cụ thể.

Năng lực pháp luật là thuộc tính không tách rời của mỗi cá nhân, thời điểm phát sinh tùy quy định của mỗi nước. Theo luật pháp nước ta, năng lực pháp luật của mỗi công dân phát sinh khi được sinh ra, và chấm dứt khi người đó chết, tức là mỗi công dân Việt Nam được xem như có năng lực pháp luật khi còn sống.

20

Tuy nhiên có một số trường hợp năng lực pháp luật chỉ xuất hiện khi cá nhân đạt đến một độ tuổi nhất định. Lúc này năng lực pháp luật và năng lực hành vi xuất hiện cùng một lúc.

Ví dụ: Độ tuổi kết hôn của công dân Việt Nam, nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên; đủ 21 tuổi được quyền ứng cử, đủ 18 tuổi được quyền bầu cử, v…

Năng lực pháp luật là điều kiện pháp lý chủ yếu quy định tư cách của chủ thể. Không có năng lực pháp luật thì không thể tham gia quan hệ pháp luật với tư cách là chủ thể. Về nguyên tắc, năng lực pháp luật của cá nhân không bị hạn chế trừ trường hợp do pháp luật quy định, chủ yếu là chế tài đối với người vi phạm pháp luật và việc hạn chế đó phải được thực hiện theo thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định.

  • Năng lực hành vi là khả năng của chủ thể bằng chính hành vi của mình, tham gia vào quan hệ pháp luật và tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý được pháp luật quy định.

Năng lực hành vi được đảm bảo bằng hai điều kiện sau: độ tuổi; khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

  • Đạt đến một độ tuổi nhất định: về tuổi, tùy theo quy định của từng nước và tùy từng loại quan hệ pháp luật nhưng thường thấy lấy độ tuổi 18 là tuổi thành niên của công dân làm mốc quy định, ở độ tuổi này, công dân đã có đủ suy nghĩ khi hành động. Tuy nhiên, phụ thuộc vào tính chất, tầm quan trọng của quan hệ pháp luật mà pháp luật quy định độ tuổi cho một số loại quan hệ pháp luật có khác nhau.

Ví dụ: Ở Việt Nam, trong quan hệ pháp luật hình sự, theo Điều 12 BLHS 2015 quy định: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

  1. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định.”

Trong quan hệ pháp luật dân sự quy định: Người đủ 18 tuổi trở lên và không bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác không điều khiển hành vi là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Người chưa đủ 6 tuổi, người mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác không điều khiển hành vi thì không có năng lực hành vi dân sự. Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, phù hợp với lứa tuổi. Trong trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, có tài sản riêng đủ để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập